Content on this page requires a newer version of Adobe Flash Player.

Get Adobe Flash player

 

 

 


THẢO CHƯƠNG TÂN ƯỚC

Luca l Giăng

Biên Soạn: Dick Woodwar


KHẢO CỨU PHÚC ÂM LUCA VÀ GIĂNG

Chương 1:“NHÌN CHUNG VỀ PHÚC ÂM LUCA”

Tác giả Phúc âm Luca không phải là người Do Thái và cũng không phải là một trong số mười hai sứ đồ. Ông là người Hy lạp, ông viết Phúc âm nầy để gởi cho một người Hy lạp.Các học giả tin rằng Luca đã nhờ Mari, mẹ Chúa Jêsus và Giacơ, em Ngài cùng nhiều nhân chứng khác làm nguồn tư liệu để viết Phúc âm nầy. Phaolô xem Luca là “thầy thuốc rất yêu dấu” và là bạn đồng hành của mình. Hiển nhiên, Luca đã đi cùng Phaolô để chữa trị chứng bệnh thuộc thể là “cái dằm xóc vào thịt” cho vị sứ đồ nầy (IICôrinhtô 12). Phaolô đề cập đến Luca ba lần trong các thư tín được Chúa hà hơi của ông (Côlôse 4:14; II Timôthê 4:11; Philíp 2:4).

Luca cũng là tác giả sách Công Vụ Các Sứ Đồ, là sách được ông viết để gởi cho cùng một độc giả như ở Phúc âm Luca, đó là Thêôphilơ. Vì tên nầy có nghĩa là “người yêu kính Chúa”, cho nên một số học giả cho rằng hai sách nầy cũng được gởi cho bất kỳ ai yêu kính Chúa. Trong khi đó, có nhiều học giả khác lại bảo Thêôphilơ chỉ là một quý nhân đáng kính đối với Luca mà thôi.

Tác giả Phúc âm Luca hẳn là người có trình độ học thức uyên thâm. Thiên hạ thời bấy giờ xem ông như một nhà khoa học. Ông dùng thuật ngữ y học nhiều hơn cả Hippocrates người được mệnh danh là “cha đẻ của nền y học hiện đại”. Và so với tất cả các tác giả Tân ước, kể cả Phaolô thì ông là người vận dụng ngữ pháp Hy lạp siêu đẳng nhất. Ông là một nhà văn thiên tài và là nhà sử học rất đáng tin cậy.

Khi Luca ký thuật về những cuộc hành trình truyền giáo của Phaolô, ông thường dùng các đại từ nhân xưng như “chúng ta” và “họ” xen kẽ nhau. Đọc kỹ những phân đoạn Kinh thánh trong sách Công vụ có đại từ “chúng ta”, chúng ta sẽ thấy Luca đồng hành với Phaolô trên suốt những chặng đường truyền giao đo. Phaolo viet cho ngươi Côrinhto rằng Đưc Chua Trời không gọi nhiều người được cho là khôn ngoan theo đời nầy để đến với sự cứu rỗi (ICôrinhtô 1:26-29). Ông và Luca là trường hợp ngoại lệ với quy luật ấy, là quy luật có thể được xem như là sự lý giải khác cho mối liên hệ thân thiết của họ.

Luca ghi lại tất cả hai mươi phép lạ, nhưng chỉ có sáu trong số đó được ký thuật ở Phúc âm của ông. Ông ghi lại hết thảy hai mươi ba câu chuyện ẩn dụ, riêng sách Phúc âm của ông chỉ ghi nhận mười tám ẩn dụ mà thôi.

Luca là sách Phúc âm được rất nhiều người ưa thích vì trong sách nầy Đấng Christ được mô tả như là Đấng có tình cảm rất con người, có lòng hay thương xót, rất chu đáo, và có nhân tính hoàn toàn giống với con người chúng ta. Là một thầy thuốc, chắc chắn Luca có lương tâm tốt đối với mọi người, và ông đã cho chúng ta thấy lai lịch của Chúa Cứu Thế Đấng cũng có tấm lòng đại lượng như vậy. Vì lúc nào cũng chú trọng đến phương diện giao tế của con người, cho nên Luca kể cho chúng ta nghe câu chuyện Mathê đã nổi giận bởi lẽ Mari không giúp đỡ bà ta để chuẩn bị bữa ăn chiều, trong khi Chúa Jêsus là thượng khách của họ sẽ dùng bữa (Luca 10: 8-42). Với cái nhìn chính xác của một sử gia khi quan sát những chi tiết của sự việc, cùng với tấm lòng bao dung, hay thương xót của một danh y, Luca cho chúng ta thấy ánh mắt Chúa Jêsus đã gặp ánh mắt Phierơ rất đúng lúc, khi gà cất tiếng gáy thì Phierơ vừa mới chối Chúa lần thứ ba (Luca 22: 60-61).

Qua tất cả những việc ghi nhận trong Phúc âm Luca, chúng ta thấy được tính cách con người của Chúa Jêsus. Khi xem xét tất cả, chắc chắn bạn sẽ nhìn thấy một diện mạo cùng hình ảnh tinh thần của Chúa Jêsus đã góp phần rất nhiều cho việc chứng thực rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời và là Con người, và hiện nay Ngài cũng đang hiện hữu. Sứ điệp của sách Phúc âm thứ ba nầy nói về nhân tính của Đấng Thần Nhân. Ở đây, điều cần nhấn mạnh rằng Con người chính là Đức Chúa Trời, Đấng đã tự đồng hóa với nhân tính của chúng ta.

Là một sử gia đáng tin cậy và là nhà văn lỗi lạc, Luca đã sắp đặt “mọi sự theo thứ tự” cho người bạn của mình là Thêôphilơ, một người nổi tiếng rất mực yêu kính Chúa mà ông rất đổi yêu mến (Luca 1:3). Trong lời giới thiệu ở cuốn sách lịch sử duy nhất đầy thần cảm của Tân ước, ông đã mô tả Phúc âm thứ ba nầy như là một bản ký thuật về “mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu, cho đến ngày Ngài được cất lên trời” (Công vụ 1:1-2).

Nhà viết sử được Chúa hà hơi nầy đã kể cho chúng ta nghe về sự giáng sinh và ba mươi năm đầu đời của Chúa Jêsus nhiều hơn các trước giả Phúc âm khác. Hai chương đầu ông dành hết một trăm ba mươi hai câu cho khoảng thời gian bình lặng ấy. Phúc âm Luca là một ký thuật trình bày chính xác về những điều Chúa Jêsus đã làm và sự dạy dỗ mang tính lịch sử rất thứ tự, từ sự giáng sinh cho đến thăng thiên của Ngài. Nhiều học giả cho rằng Luca 19:10 “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” chính là câu chìa khóa của Phúc âm nầy.

Chương 2: SUY NGHĨ VỀ SỰ GIÁNG SINH

Theo Luca thì khi Đức Chúa Trời đến chia đôi dòng lịch sử nhân loại và trở thành người, Ngài đã mời gọi một số người dự phần vào phép lạ vĩ đại của Ngài. Cho dù chỉ có vài người trong số họ, là những tấm gương đã đem lại nhiều điều dạy dỗ chúng ta.

Trinh Nữ Mari

Thiên sứ Gápriên viếng thăm Mari, một trinh nữ đã được hứa gả cho một người có tên là Giôsép. Thiên sứ công bố cho Mari nghe cùng một sứ điệp như đã nói với Xachari thầy tế lễ và cũng là cha của Giăng Báptít – rằng, Đức Chúa Trời sắp trở thành người. Thầy tế lễ nầy không tin lời thiên sứ nói và bởi sự nghi ngờ đó, thiên sứ cho biết là ông sẽ bị câm,không nói được và không được phép nói với bất cứ ai về phép lạ vĩ đại nầy cho đến chừng nó được ứng nghiệm. Thiên sứ Gápriên bảo cho Mari biết là bà sẽ thọ thai và mang lấy Con Đức Chúa Trời trong lòng mình. Mari liền hỏi: “Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó?”(Luca 1:34).

Mặc dù thắc mắc với thiên sứ về việc một trinh nữ như bà thì làm sao tự nhiên lại mang thai được, thế nhưng Mari không phản ứng lại bằng sự nghi ngờ như Xachari. Thầy tế lễ nầy không tin vào phép lạ làm sao có thể sinh con trong lúc vợ ông bị vô sinh, vì cả hai đều đã lớn tuổi. Mari không nghi ngờ mà chỉ tự hỏi không biết Đức Chúa Trời sẽ làm thế nào để có thể khiến nàng là một trinh nữ lại có thể sinh con được. Thật vậy, ở đây chúng ta nhận thấy Mari đã tin những lời thiên sứ nói khi Êlisabét bảo bà: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!” (Luca 1:45).

Đức Tin Của Những Kẻ Chăn Chiên

Nhiều thiên sứ hiện đến với mấy gã chăn chiên đang thức đêm canh giữ bầy chiên của mình. Các thiên sứ báo cho họ biết Tin Mừng là Chúa Cứu Thế vừa giáng sinh (Luca 2:10-11). Chúng ta hãy đến xem Tin Mừng đã được các thiên sứ loan báo. Sau khi nhận được thông điệp nầy – tức là vào trước và sau khi chứng kiến phép lạ ấy mấy kẻ chăn chiên vội đi thuật lại cho mọi người nghe những điều mà các thiên sứ đã nói với họ.

Bạn có bao giờ tự hỏi là tại sao Đức Chúa Trời lại nói cho mấy kẻ chăn chiên biết phép lạ về Giáng Sinh đầu tiên không? Tất cả những người đã được báo cho biết về phép lạ nầy đã đóng một vai trò quan trọng và dường như Đức Chúa Trời đã báo cho họ về một điều cơ bản cần phải biết. Thầy tế lễ Xachari cùng vợ là Êlisabét – song thân của Giăng Báptít cần phải biết. Mari và Giôsép cần phải biết và tin, nhưng chúng ta đọc thấy rằng “còn Mari thì ghi nhớ mọi lời ấy và suy nghĩ trong lòng” (Luca 2:19).

Trên một phương diện khác, các gã chăn chiên đã nói cho mọi người biết những gì mà họ đã thấy và nghe, trước và sau khi họ chứng kiến phép lạ vĩ đại nầy. Tại sao Đức Chúa Trời đã nhắc đến những kẻ chăn chiên trong phép lạ vĩ đại của Ngài? Bởi vì Ngài biết rằng họ sẽ tin và sẽ nói cho mọi người biết phép lạ về Chúa Cứu Thế, là Đấng Christ Đấng Mêsi đã được hứa, và cũng là Chúa.

Chúa Jêsus Lên Đền thờ Năm Mười Hai Tuổi.

Luca ngắt khoảng thời gian yên lặng và chỉ kể cho chúng ta biết về một câu chuyện ở trong ba mươi năm Chúa Jêsus đã sống, giữa thời khoảng được sinh ra cho đến lúc bắt đầu ba năm chức vụ công khai của Ngài. Đây là một sự việc bất ngờ đã xảy ra khi Ngài được mười hai tuổi. Lúc ấy, cha mẹ Ngài dẫn Ngài lên thành Giêrusalem cùng với những đoàn hành hương về dự lễ.

Trên đường về nhà, mãi ba ngày sau cha mẹ Ngài mới nhận ra Ngài không cùng về với họ. Họ hoảng hốt quay lại, theo đường cũ đến Giêrusalem tìm Ngài, và họ thấy Ngài ở trong Đền thờ, đang tranh luận với các vị lãnh đạo tôn giáo. Khi cha mẹ Ngài cho biết là họ đã hoảng hốt đi tìm Ngài ra sao thì Ngài trả lời rằng: “Cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao!” (Luca 2:49).

Việc nầy khiến cho cha mẹ Chúa Jêsus trông có vẻ rất con người việc để lạc mất con mình và trở lại kiếm Ngài ở chỗ cũ nơi mà họ nghĩ rằng Ngài còn ở đó. Thế rồi Ngài lại nói với họ rằng họ cần phải nhận biết Ngài đang còn phải phụng sự Cha Ngài ở Đền thờ, nơi mà họ thấy Ngài đang học hỏi, chất vấn các thầy thông giáo và Rabi. Đây là một sự kiện đáng chú ý.

Những Ứng Dụng Cá Nhân

Cả Cựu ước lẫn Tân ước đều cho chúng ta biết rồi đây Chúa Jêsus sẽ chia cắt dòng lịch sử nhân loại một lần nữa bằng một phép lạ, ấy là sự tái lâm của Ngài. Thực chất của sự Giáng sinh đầu tiên là Đức Chúa Trời trở nên xác thịt đặng đem đến sự cứu rỗi cho chúng ta. Sự tái lâm của Đấng Christ cũng tương tự như vậy. Nói một cách khác, Đức Chúa Trời sắp sửa giáng thế lần thứ hai. Sự Giáng thế đầu tiên của Ngài chính là niềm hy vọng duy nhất cho sự cứu rỗi của chúng ta. Còn sự Tái lâm chính là niềm hy vọng phước hạnh của Hội thánh và là niềm hy vọng duy nhất cho thế gian nầy.

Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự hiểu biết về niềm hy vọng phước hạnh duy nhất qua Lời Ngài. Ngài muốn dùng chúng ta đi rao báo cho những ai đang sống trong tuyệt vọng biết về Tin Mừng về sự trở lại trần gian của Con Ngài sẽ được ứng nghiệm. Nếu chúng ta nghi ngờ phép lạ nầy giống như Xachari, thì chắc chắn sự vô tín ấy sẽ khớp miệng chúng ta lại, và chúng ta sẽ chẳng chia sẻ cho ai được niềm hy vọng ấy. Còn nếu giống như Mari, chúng ta mãi lo tìm hiểu thắc mắc và phân tích tất cả các chi tiết về sự trở lại của Chúa, khiến chúng ta cứ suy nghĩ cân nhắc về những điều đó trong lòng, thì chúng ta cũng sẽ không thể nói được cho những người đang tuyệt vọng nghe về niềm hy vọng duy nhất của họ.

Chúng ta phải noi theo gương những người chăn chiên, hãy đi nói cho mọi người biết Tin Mừng nầy trước khi chúng ta tự mình suy xét nó. Bạn có sẵn lòng theo gương những người chăn chiên đi thuật lại cho mọi người nghe về niềm hy vọng phước hạnh là niềm hy vọng mà một Cơ Đốc Nhân như bạn đang có, và bạn có nói cho họ biết về niềm hy vọng duy nhất của thế gian nầy thực sự là gì không?

Chương 3:“BẢN TUYÊN NGÔN CỦA ĐẤNG MÊSI”

Có hai câu Kinh thánh thực sự đã cho chúng ta sự hiểu biết về Phúc âm Luca. Tôi đã đề cập đến câu thứ nhất ở phần trên (Luca 19:10). Chúa Jêsus ban cho chúng ta câu thứ hai khi Ngài đi vào Nhà hội ở quê hương Ngài và đọc những lời được chép trong sách tiên tri Êsai (Luca 4:18). Nếu so sánh hai câu nầy với nhau, bạn sẽ thấy cả hai đều tuyên bố rõ ràng về mục đích đến trần gian của Chúa Jêsus.

Hãy xem xét kỹ nội dung từng câu. Câu thứ nhất mô tả sinh động hình ảnh Chúa Cứu Thế của thế gian nầy, là hình ảnh Ngài đã bỏ ra rất nhiều thì giờ – “để tìm và cứu kẻ bị mất” (Luca 19:10). Tuy nhiên, khi suy gẫm nội dung câu thứ hai, chúng ta thấy đó chính là “Bản Tuyên Ngôn Của Đấng Mêsi” (Luca 4:18). Bản Tuyên ngôn nầy là lời tuyên bố đầy đủ do chính Chúa Jêsus, công bố lý do tại sao Ngài đến thế gian và nói về những việc Ngài đang làm trên thế gian. Đôi khi nó còn được gọi là “Bản Tuyên Ngôn Naxarét”, vì nó được công bố tại quê hương của Chúa vào Lúc Ngài bắt đầu thi hành chức vụ của mình.

Bản Tuyên Ngôn Được Công Bố

“Đức Chúa Jêsus đến thành Naxarét, là nơi dưỡng dục Ngài. Theo thói quen, nhằm ngày Sabát, Ngài vào Nhà hội, đứng dậy và đọc. Có người trao sách tiên tri Êsai cho Ngài, Ngài giở ra, gặp chỗ có chép rằng: Thần của Chúa ngự trên Ta; vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng truyền Tin lành cho kẻ nghèo; Ngài đã sai Ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà hiếp được tự do; và để đồn ra năm lành của Chúa. Đoạn, Ngài xếp sách, trả lại cho kẻ giúp việc, rồi ngồi xuống; mọi người trong Nhà hội đều chăm chỉ ngó Ngài. Ngài bèn phán rằng: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà các ngươi mới vừa nghe đó” (Luca 4:16-21).

Nhiều nhà lãnh đạo đời nầy thường bắt đầu sứ mạng của họ bằng việc viết ra một bản tuyên ngôn để đưa ra những trách nhiệm cùng những giải pháp của họ đối với những vấn đề của dân chúng. Khi nghe Chúa Jêsus bắt đầu ba năm thi hành chức vụ của Ngài bằng việc đọc lên “bản Tuyên ngôn Naxarét”, ấy là chúng ta đang nghe Ngài đọc một bản Tuyên ngôn vĩ đại nhất mà thế giới nầy đã từng nghe. Đây không chỉ là sự thật bởi vì nội dung của bản Tuyên ngôn đó là lời Kinh thánh đã được Đức Chúa Trời hà hơi và sự ứng nghiệm của lời tiên tri. Bản Tuyên ngôn Naxarét là bản Tuyên ngôn vĩ đại nhất mà thế gian nầy từng nghe bởi vì nó thi hành một cách hoàn hảo bởi Đấng đã công bố nó.

Chúng ta cũng sẽ nhận thấy Chúa Jêsus đang tuyên đọc bản Tuyên ngôn của Hội thánh ngày nay, bởi cách Luca nói cho chúng ta biết về sự bắt đầu chức vụ của Ngài. Bản Tuyên ngôn Naxarét không những cho chúng ta thấy những điều Ngài đã làm khi còn tại thế trong xác thịt, mà còn cho chúng ta biết những điều Ngài mong muốn thực hiện qua chúng ta ngày nay là những người tự nhận mình là “Thân Thể của Đấng Christ”.

Có một phong trào trên thế giới mà rất ít người theo đuổi bản Tuyên ngôn mà họ đã soạn thảo trong nhiều năm. Sau đó, một thành viên trong nhóm đã viết một cuốn sách nhỏ với tựa đề: “Chúng ta Cần Phải Làm Gì?” Trọng tâm của cuốn sách nhỏ nầy là: “Những người tin vào bản Tuyên ngôn này đã làm gì?” Và rồi cuốn sách nhỏ đó đã khích lệ, mời gọi được hàng triệu người tham gia vào phong trào ấy.

Đời sống và những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus chính là bản Tuyên ngôn của những người làm môn đồ Ngài. Những người thực sự tin Chúa Jêsus Christ, tin vào sự sống và sự sống lại của Ngài là giải pháp duy nhất cho các nan đề của mọi người trên thế gian nầy. Lời Tuyên ngôn về mục đích mà Chúa Jêsus tuyên đọc khi bắt đầu thi hành chức vụ, là một bản Tuyên ngôn ngắn gọn không chỉ nói cho chúng ta biết những gì Ngài dự định làm, mà còn cho chúng ta biết mỗi môn đồ của Ngài ngày nay cần phải làm gì.

Lời tuyên bố tuy vắn tắt nầy song rất đầy đủ về mục đích, sứ mạng của Chúa Jêsus đã giúp tôi có một cái nhìn tổng quát về Phúc âm Luca. Khi cùng nhau nghiên cứu sách Phúc âm thứ ba nầy, tôi sẽ trình bày việc Chúa Jêsus đã tuyên bố bản Tuyên ngôn của Ngài ra sao khi Ngài đọc sách tiên tri Êsai ở Naxarét, kế đến Ngài đã chứng minh cho các nhà lãnh đạo tôn giáo trong thời ấy rằng Ngài có thẩm quyền để thi hành bản Tuyên ngôn ấy. Phúc âm Luca tiếp tục chỉ cho chúng ta thấy cách mà Chúa Jêsus đã thi hành bản Tuyên ngôn mà Ngài đã tuyên đọc và chứng minh. Cuối cùng, tôi sẽ trình bày việc Luca đã vẽ nên bức tranh sinh động với khung cảnh Chúa Jêsus mời gọi và thách thức những người khác (kể cả bạn và tôi), nhằm khiến chúng ta trở thành người cùng dự phần với Ngài thực thi đầy đủ bản Tuyên ngôn và sứ mệnh của Ngài trên thế gian nầy.Cách Luca trình bày về tiểu sử Chúa Jêsus đã đem lại cho chúng ta một định nghĩa khác của việc làm thế nào để trở thành môn đồ của Ngài. Ông cũng cho chúng ta thấy Hội thánh của Chúa Jêsus Christ cần phải làm gì trong thế giới ngày nay.

Tôi thường nghĩ sẽ thật tuyệt vời biết bao nếu như có môn đồ nào đó của Chúa Jêsus đọc bản Tuyên ngôn của chúng ta và sau đó đặt tựa đề cho một cuốn sách nhỏ là: “Môn đồ tin vào bản Tuyên ngôn của Chúa Jêsus đã làm gì?” Cuối cùng, tôi nhận thấy rằng, không một môn đồ nào có thể viết nổi cuốn sách đó cho hết thảy chúng ta, bởi vì Đức Chúa Trời đã định sẵn ý muốn Ngài cho đời sống mỗi cá nhân chúng ta. Ngài sẽ bày tỏ ý muốn Ngài cho chúng ta biết qua một cách nào đó để khiến chúng ta phải đến trước Ngài, như Phaolô đã đến trên đường Đamách, và thưa với Ngài: “Lạy Chúa! Bây giờ Chúa muốn con làm gì đây?” (Công vụ 9:6).

Nếu bạn chưa phải là môn đồ Chúa Jêsus, tôi ước mong cuốn sách nhỏ nầy sẽ giới thiệu bạn với Đấng đã đến với con người một cách cá nhân, Ngài đã chứng minh rằng Ngài chính là Đấng đã đến theo lời hứa và Ngài cũng muốn chạm đến đời sống của chính bạn. Còn nếu bạn đã là môn đồ của Chúa Jêsus, thì tôi hy vọng tập tài liệu khảo sát sách Phúc âm Luca nầy sẽ chỉ cho bạn biết Ngài muốn bạn làm gì. Có lẽ mỗi một chúng ta vẫn còn nghe tiếng nói nhỏ nhẹ của Chúa hằng sống, phục sinh của chúng ta, đã khiến cho chúng ta biết được những gì Ngài muốn chúng ta làm khi chúng ta trở thành những cộng sự với Ngài, và Ngài vẫn còn đang thi hành bản Tuyên ngôn của Ngài trong và qua chính con người xác thịt chúng ta.

Bản Tuyên Ngôn Của Đấng Mêsi Được Minh Chứng

Lúc bấy giờ, Chúa Jêsus đang chữa bệnh và dạy dỗ trong một căn nhà nọ tại thành Cabênaum. Các vị lãnh đạo tôn giáo là những người được mô tả như “những thầy dạy Luật”, đã từng đi suốt dọc theo chiều dài đất nước Ysơraên. Họ từ Giêrusalem đến Galilê, để điều tra về phép lạ không thể bác bỏ được, đó là việc Chúa Jêsus chữa lành cho người phung. Điều nầy đã chứng thực cho nội dung của bản Tuyên ngôn mà Chúa Jêsus đã tuyên bố tại Naxarét. Ngài còn làm phép lạ chữa bệnh khác nữa được ghi nhận trong phân đoạn Kinh thánh nầy, ấy là những việc làm nhằm để “cho các ngươi biết Con Người ở thế gian có quyền tha tội!” (Luca 5:17-26).

Trong khi Chúa Jêsus đang giảng dạy, kìa, có bốn người đàn ông dỡ mái nhà ra, dùng dây thừng để đưa một người bạn bị bại liệt của họ đang nằm trên một cái giường nhỏ xuống trước mặt Ngài. Chúa Jêsus không hề bị gián đoạn trong việc giảng dạy, nhưng đây chính là cơ hội cho Ngài. Giờ đây, Ngài dùng cơ hội nầy để chứng minh cho bản Tuyên ngôn của Ngài khi Ngài bảo người bệnh rằng: “Tội lỗi ngươi đã được tha!” Những nhà lãnh đạo tôn giáo đạo mạo nghe vậy rất sững sờ, bèn chất vấn: “Ngoài Đức Chúa Trời, há có ai tha tội được sao?”

Chúa Jêsus đáp lời họ bằng một câu hỏi: “Các ngươi nghị luận gì trong lòng? Nay nói rằng: Tội ngươi đã được tha, hoặc rằng: Ngươi hãy đứng dậy mà đi, thì bên nào dễ hơn? Vả,hầu cho các ngươi biết Con Người ở thế gian có quyền tha tội: Ngài phán cùng kẻ bại rằng:Ta biểu ngươi đứng dậy, vác giường trở về nhà. Tức thì kẻ bại đứng dậy trước mặt chúng, vác
giường mình đã nằm, và đi về nhà, ngợi khen Đức Chúa Trời” (Luca 5:23-25).

Khi Chúa bảo người bệnh rằng anh ta đã được tha tội, thì những vị khách đặt biệt nầy có lẽ nghĩ rằng: “Chúng tôi thấy chỉ có ông là người duy nhất mới nói như vậy!” Ngài nhất trí với các giáo sư thần học đó rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội. Qua phép lạ nầy, Ngài chứng tỏ rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời đang ở với chúng ta, và ở thế gian nầy Ngài cũng có quyền tha tội như Đức Chúa Trời ở trên trời vậy. Do đó Ngài đã minh chứng rằng Ngài có năng lực và uy quyền để thực hiện bản Tuyên ngôn của Ngài.

Bản Tuyên Ngôn Naxarét Được Thực Hiện

Chúa Jêsus tuyên bố Thần của Đức Chúa Trời đã xức dầu cho Ngài vì một mục đích “truyền Tin lành cho kẻ nghèo”. Trong phân đoạn Kinh thánh nầy, Chúa không đề cập đến người nghèo về vật chất, nhưng nghèo về tâm linh, là những người chưa từng được nghe Tin lành cứu rỗi. Họ nghèo khổ trong ý nghĩa là họ bị đui mù thuộc linh, là những con người đang bị trói buộc và có những cõi lòng tan nát.

Những người nghèo mù lòa nầy là những người không phân biệt được phải trái, họ như chiên không người chăn (Mathiơ 9:6). Họ đã bị mù về phần tâm linh. Mục đích sứ mệnh của Ngài là rao giảng và dạy dỗ Phúc âm để cho những kẻ mù thuộc linh nầy có thể nhìn thấy được. Ngài giảng dạy qua những bài giảng, những câu chuyện ẩn dụ, những cuộc gặp gỡ trao đổi riêng tư, và qua những hành động nhằm đem lại ánh sáng cho những người mù thuộc linh.Chúa Jêsus còn đem Tin lành của Ngài đến cho những người đang bị trói buộc. Ngài được sai đến “để rao cho kẻ bị cầm được tha”. Mặc khác, “để kẻ bị hà hiếp được tự do” (Luca 4:18-19). Khi quan sát các sách Phúc âm, chúng ta sẽ không bao giờ thấy Chúa Jêsus rời khỏi một người nào còn đang bị trói buộc mà Ngài không giải cứu cho. Một minh họa tuyệt vời cho điều nầy là trường hợp người phụ nữ bị quỷ Satan trói buộc suốt mười tám năm cho đến lúc được Chúa Jêsus giải cứu (Luca 13:16). Ngài cũng làm sáng tỏ mục đích sứ mệnh của Ngài trong cuộc đối thoại không thân thiện với các nhà lãnh đạo tôn giáo (Giăng 5:30-35; 8:30-35).

Chúa Jêsus mô tả những thực tế khó khăn trong cuộc đời giống như những cơn bão tố vậy. Ngài tuyên bố các cơn bão ấy thường xảy đến trên đời sống chúng ta. Khi các cơn bão giáng xuống trên con người, một số thì chao đảo và một số khác thì bị ngã nhào. Những người có tấm lòng đau thương tan vỡ mà Êsai và Chúa Jêsus đã mô tả chính là những người đã bị ngã nhào bởi những cơn bão đời của họ. Sự thương xót của Chúa Jêsus dành cho những người tan vỡ nầy là một trong những khía cạnh gây xúc động nhất trong cuộc đời và chức vụ của Ngài. Là một thầy thuốc với tấm lòng trắc ẩn, Luca thường nhấn mạnh đến lòng nhân ái và thương xót của Chúa Jêsus đối với những người có cõi lòng tan vỡ trong cuộc đời nầy.

Bạn có đang bị đui mù thuộc linh không? Bạn có cảm thấy mình đi lạc quá xa và không biết làm thế nào để quay trở về không? Hiện tại bạn có tự do không? Có phải bạn thường làm theo những gì mà bạn muốn hay những gì mà bạn đáng phải làm không? Bạn có đang ở trong sự trói buộc của tội lỗi hay là một thói quen xấu nào đó mà không có khả năng để thoát ra khỏi sự trói buộc đó không? Có phải bạn đang là người có cõi lòng tan vỡ, mà không thể tìm được sự chữa lành cho những tổn thương của mình chăng?

Để trả lời một cách xác quyết cho tất cả những câu hỏi trên, Luca đã kể về cuộc đời của Chúa Jêsus để bày tỏ cho bạn và tôi biết rằng, chúng ta chính là những người đã khiến cho
Chúa Jêsus phải đến trần gian nầy. Ngài đến để đem lại sự sáng cho bạn khi bạn đang bị mù lòa, để giải phóng bạn thoát khỏi sự trói buộc, và chữa lành những vết thương lòng của bạn. Hãy quyết định tin nhận Chúa Cứu Thế mà bạn gặp được trong Phúc âm Luca. Hãy hứa nguyện theo Ngài, làm môn đồ của Ngài và Ngài sẽ khiến bạn trở nên trọn vẹn trong mọi lĩnh vực.

Chương 4:“CÙNG DỰ PHẦN THỰC HIỆN BẢN TUYÊN NGÔN”

Một nhận xét cuối cùng về cách mà bản Tuyên ngôn nầy đã phát thảo trong Phúc âm Luca là để nhận thức rằng Chúa Jêsus vẫn đang tiếp tục dạy dỗ và thực tập cho các sứ đồ Ngài. Ngài cũng thách thức những người khác trở nên đồng sự của Ngài để thi hành các mục đích sứ mệnh mà Ngài đã tuyên bố ở Naxarét. Thí dụ điển hình thứ nhất cho điều nầy là cách mà Chúa Jêsus đã chiêu mộ Phierơ để cộng tác với Ngài thực thi bản Tuyên ngôn của Ngài.

Vào một buổi sáng sớm tinh mơ, tại bờ hồ Galilê, trong khi Chúa Jêsus đang giảng đạo cho một đoàn dân đông, Ngài đã hỏi mượn chiếc thuyền của Phierơ, là người vừa mới trở về từ một đêm đánh cá không thành công, để làm bục giảng. Dường như Chúa Jêsus cần đứng cao hơn một chút để có thể truyền đạt hiệu quả hơn cho cả đoàn dân đông đang chen lấn Ngài ra sát mép nước (Luca 5:1-11).

Đây không phải là lần đầu tiên Chúa Jêsus gặp Phierơ. Trước đây Anhrê đã từng giới thiệu ông với Ngài (Giăng 1:41-42). Chúng ta được biết Chúa Jêsus đã đưa ra lời kêu gọi cho hai anh em nầy, cùng với các cộng sự của họ trong việc đánh bắt cá, là hai anh em Giacơ và Giăng. Lời kêu gọi đó là: “Hãy theo Ta! Ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người!” (Mathiơ 4:19). Có thể đây là sự kể thêm của Luca cho điều mà Mathiơ chỉ mô tả trong một câu. Hoặc có thể Luca đang cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus đang nhắc lại và củng cố thêm cho lời kêu gọi của Ngài, và đang bày tỏ những gì mà Phierơ cần phải học nếu như ông muốn trở nên tay đánh lưới người.

Sau khi giảng dạy, Ngài có ý muốn nói với Phierơ: “Ta muốn ngươi đưa Ta đi đánh cá!” Ngài bảo Phierơ đưa thuyền ra chỗ nước sâu lần nữa. Sau đó, Ngài bảo ông hãy thả lưới xuống nước và kết quả là được một mẻ cá lớn! (Luca 5:4-6).

Trong lúc Chúa Jêsus đang dạy dỗ dân chúng, chúng ta thấy Phierơ đang giặt giũ lưới và thu dọn mọi thứ mà đêm qua ông đã không đánh bắt được gì. Tôi hình dung sáng hôm ấy Phierơ đang ở trong tâm trạng không vui, và khi Chúa Jêsus dạy dỗ đoàn dân đông, thì Ngài dường như đã để tâm đến tay ngư phủ cừ khôi nầy nhiều hơn là đoàn dân ấy.

Chúa Jêsus biết rằng sau ba năm ngắn ngủi, tay ngư phủ nầy, là người đã từng có lần không thể đánh bắt được cá, sẽ giảng một bài giảng trong ngày lễ Ngũ tuần đem lại kết quả ba ngàn người ăn năn tin nhận Chúa, và hàng ngàn người khác sau đó đã được cứu mỗi khi ông rao giảng Phúc âm (Công vụ 2:4-42).

Chúa Jêsus cũng biết rằng sau ba năm kể từ buổi sáng ấy, cái bóng của ngư phủ cừ khôi nầy đi ngang qua những tấm thân của mấy người què tuyệt vọng, họ liền được chữa lành một cách lạ lùng! (Công vụ 5:12-16). Đó là lý do tại sao tôi nghĩ Chúa Jêsus đã lưu tâm đến Phierơ hôm ấy nhiều hơn tất cả những người khác.Chúa Jêsus đã thay đổi chàng ngư phủ nầy như thế nào, để rồi sau đó đã cùng với Phaolô trở nên những tay đánh lưới người vĩ đại nhất mà thế giới nầy biết đến? Những động lực thuộc linh trả lời cho thắc mắc của tôi đang diễn ra trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Jêsus với Phierơ. Chúa đang thách thức Phierơ để khiến ông trở nên người cùng với Ngài thi hành những mục đích của sứ mệnh mà Ngài đã từng tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Naxarét của Ngài.Khi Chúa Jêsus và Phierơ ra chỗ nước sâu, Ngài bảo Phierơ hãy thả lưới xuống đó. Phierơ đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã làm suốt đêm không bắt được chi hết…”. Một lần nữa, tôi thử dùng trí tưởng tượng của mình và suy nghĩ, có lẽ Phierơ hơi thoáng ngập ngừng khi ánh mắt ông và Chúa Jêsus gặp nhau, rồi sau đó ông tiếp: “…dầu vậy, tôi cũng theo lời Thầy mà thả lưới” (Luca 5:5).Khi lưới được kéo lên thì đầy những cá! (Luca 5:6-7). Đáp ứng lại trước phép lạ vĩ đại nầy, Phierơ liền quỳ xuống dưới chân Chúa Jêsus, thưa: “Lạy Chúa! Xin ra khỏi tôi vì tôi là người có tội” (5:8). Chúa Jêsus bảo: “Đừng sợ chi! Từ nay trở đi, ngươi sẽ trở nên tay đánh lưới người” (5:10).

Trước khi gặp Chúa Jêsus, đời sống Phierơ dành hết mọi sự ưu tiên của ông cho việc đánh bắt cá. Chúa đã phán với Phierơ ba từ mà tôi rất thích và được xem như là Đại Mạng lịnh: “Đánh lưới người (nam)!” Nhiều người trong Hội thánh ngày nay có xu hướng truyền bá Phúc âm cho phụ nữ và trẻ em mà thôi vì thấy dễ dàng hơn. Nhưng Chúa Jêsus biết rõ phụ nữ và trẻ em lại thường phải nghe theo người đàn ông và nếu chúng ta bắt phục được người đàn ông thì chúng ta sẽ có thể đem cả gia đình về cho Ngài.Tại sao Phierơ đã đáp ứng với phép lạ đánh cá bằng việc tự nhận mình là tội nhân, và xin Ngài đừng làm gì cho ông cả? Một số học giả cho rằng Chúa Jêsus đang giảng cho đoàn dân về vấn đề tội lỗi của loài người, bấy giờ Phierơ đang nhận thức về tội lỗi, và điều nầy đã thực biến đổi Simôn Phierơ.

Nhiều học giả khác lại nghĩ Chúa Jêsus đang kêu gọi Phierơ để cùng dự phần với Ngài và giúp Ngài thực hiện bản Tuyên ngôn của Ngài. Có lẽ Phierơ đã nhận biết rằng Chúa Jêsus đang hỏi ông: “Con có sẵn lòng góp sức với Ta đem ánh sáng đến cho kẻ mù, đem tự do đến cho người bị trói buộc, và chữa lành cho người có cõi lòng tan nát không? Con sẽ không dành ưu tiên đời mình cho việc đánh lưới cá nữa, mà dùng cuộc đời mình để đánh lưới người chứ?” Những học giả nầy tin Phierơ là người đã nhanh chóng nhận thức được mình là kẻ có tội với một xúc cảm mạnh mẽ, vì vậy ông cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng chút nào đối với lời kêu gọi đó.Có thể lúc ấy ông nói với Chúa thế nầy: “Thưa Chúa! Con là một con người tội lỗi! Ngài không thể kêu gọi con để đi đánh lưới người được, bởi vì con thấy mình hoàn toàn không xứng đáng và không đủ tư cách!” Nếu đây thực chất là điều Phierơ đang nói thì đúng là ông đang nói đến Phước lành thứ nhất mà Chúa Jêsus đã truyền cho các môn đồ Ngài: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn…” (Mathiơ 5:3).

Để biến đổi một người đánh cá thất bại như Phierơ thành tay đánh lưới người thành công, trước hết Chúa Jêsus phải dạy Phierơ biết về Đấng đánh lưới người đang ở trên thuyền của Phierơ hôm đó. Khi Phierơ gọi Chúa là “Thầy”, có nghĩa là ông muốn nói Chúa mới chính là người Thầy, còn ông chỉ là người đánh cá mà thôi. Kế đó, ông tiếp tục nói cho Chúa biết về việc đánh cá – “mọi ngư dân đều biết nếu đi đánh cá ban đêm mà chả được con nào thì đừng hòng đánh bắt được gì vào ban ngày!”có vẻ như đây là thái độ phản đối của Phierơ vậy.

Thứ hai, Chúa Jêsus phải dạy cho Phierơ hiểu ông sẽ chẳng bao giờ có thể đi đánh lưới người được cho đến khi học biết rõ Đấng Christ Hằng sống, Phục sinh chính là Đấng đánh lưới người thật. Hai lần đánh cá nầy của Phierơ – một lần thì hoàn toàn thất bại, còn lần kia thì thành công một cách lạ thường – Phierơ đã được biến đổi ấy là nhờ ông hiểu ra một số bí quyết thuộc linh sau đây:
“Việc đánh lưới người không phải là vấn đề tôi là ai mà là chính Ngài là ai. Đánh bắt linh hồn không phải là vấn đề tôi có thể làm gì mà là Ngài có thể làm gì. Trở thành tay đánh lưới người là việc không liên quan đến điều tôi muốn, nhưng liên quan đến điều Chúa muốn. Và khi phép lạ của việc đánh lưới người xảy ra, tôi phải luôn nhớ rằng tất cả những sự cải đạo kỳ diệu là điều không phải do tôi làm mà là phép lạ siêu nhiên mà Ngài thực hiện qua con người xác thịt yếu đuối của tôi.”

Bạn có biết lý do tại sao Đấng Christ hằng sống, phục sinh đã chọn Phierơ để rao giảng trong ngày lễ Ngũ tuần và tiếp theo sau đó đã dẫn đưa hàng ngàn người đến với sự cứu rỗi không? Đó là Phierơ đã học biết được những bí quyết thuộc linh nầy nhiều hơn bất cứ ai trong những sứ đồ còn lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần, khi những dấu kỳ phép lạ đang xảy ra, Phierơ tuyên bố rằng chính Chúa Cứu Thế hằng sống, phục sinh là Đấng làm nên những sự đó trong ngày ấy (Công vụ 2:32-33).

Sống bởi Christ, trong Christ và cho Christ

Sau cuộc gặp gỡ nầy, chúng ta đọc thấy Phierơ cùng với mấy đồng nghiệp của ông đã “bỏ hết thảy mà theo Ngài” (Luca 5:11). Trong chương hành trình thuộc linh của Phierơ cho chúng ta thấy có nhiều mức độ trong mối tương giao trên bước đường chúng ta đồng hành với Chúa. Mức độ thứ nhất là sống bởi Đấng Christ – có nghĩa là chúng ta nhận lãnh được phước hạnh lớn lao qua mọi cách kỳ diệu mà Ngài đã cứu rỗi và biến đổi đời sống chúng ta. Phierơ trải nghiệm được mức độ tương giao thứ nhất nầy với Đấng Christ khi ông được Chúa ban ơn qua việc đánh cá siêu nhiên nầy.

Mức độ tương giao thứ hai với Đấng Christ là khi chúng ta áp dụng chương trình của Chúa vào trong đời sống, và dẹp bỏ mọi kế hoạch của chính mình. Có bao giờ bạn nghe người ta nói thế nầy chưa: “Tôi nhất định đem Chúa Jêsus Christ vào những hoạch định của tôi”? Câu nầy mới nghe ra tưởng chừng như có vẻ thiêng liêng lắm, nhưng nếu suy nghĩ một chút, chúng ta không có muốn để mời Chúa Jêsus bước vào kế hoạch của chúng ta đâu. Bèn là Ngài mới là Đấng luôn mong muốn mời gọi chúng ta cùng dự phần vào kế hoạch của Ngài.

Có một cụm từ trong Tân ước mà các sứ đồ thích chọn để mô tả mức độ tương giao thứ hai với Đấng Christ. Cụm từ nầy chỉ gồm có hai từ đơn giản: “Trong Christ”. Chúa Jêsus mô tả mức độ tương giao nầy bằng một ẩn dụ thật đẹp. Theo Chúa Jêsus, chúng ta phải ở trong mối tương giao với Ngài giống như nhánh nho gắn liền với gốc nho (Giăng 15:1-16). Những chùm trái nho nặng trĩu trên các nhánh nho trong ẩn dụ nầy của Chúa Jêsus, dạy cho chúng ta hiểu được về hai chữ “trong Christ”, nó còn có nghĩa rằng con người chính là phương tiện để qua đó công việc của Đấng Christ sẽ được thực hiện trong thế gian nầy, vì vậy chúng ta phải hoàn toàn “ở trong” – tức là phải gắn kết chặt chẽ với Đấng Christ hằng sống, phục sinh.

Mức độ tương giao thứ ba với Đấng Christ là sống cho Ngài. Mức độ mối tương giao nầy tập trung động cơ của chúng ta vào việc bước theo Chúa và phục sự Ngài khi Ngài đưa chúng ta vào trong chương trình của Ngài để rao giảng cho thế gian biết Tin lành cứu rỗi của Ngài. Ở mức độ tương giao nầy, chúng ta trở thành người cùng đồng công với Đấng Christ khi Ngài ban ánh sáng cho những người mù thuộc linh, giải phóng cho người bị tù, rịt lành những vết thương lòng của những người bị hà hiếp trên thế gian nầy. Hãy sống nhờ vào Christ, trong Christ và cho Christ, chúng ta trở thành những đồng sự của Ngài khi Ngài hoàn tất các mục tiêu sứ mệnh mà Ngài đã tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Naxarét của Ngài. Trong câu chuyện lý thú nầy, Phierơ đã trải qua ba mức độ mẫu trong mối tương giao với Đấng Christ. Bạn đã nhận được phước hạnh lớn lao bởi Đấng Christ chưa? Bạn có đang ở trong Đấng Christ không? Bạn có đang kết quả không? Bạn đang sống cho chính mình hay đang sống cho Đấng Christ vậy

Chương 5:“NHỮNG ẨN DỤ VỀ SỰ CỘNG TÁC”

Khi đọc Phúc âm Luca chương 15, bạn sẽ nhận thấy rằng mình đang đọc một trong những ẩn dụ hay nhất mà Chúa Jêsus đã từng giảng dạy. Trọng tâm của ẩn dụ nầy cũng dạy về lẽ thật mà chúng ta đã theo dõi trong chương nầy về hành trình thuộc linh của Phierơ. Chúa Jêsus đang tuyển mộ những người cùng dự phần làm việc với Ngài để hoàn tất các mục tiêu sứ mệnh của Ngài trên đất nầy. Chương 14 được kết thúc với việc Chúa Jêsus rao giảng một trong những bài giảng hóc búa nhất của Ngài, được biết đến như là một trong những lời phán cứng rắn của Ngài. Trong bài giảng đó, Chúa Jêsus đòi hỏi sự dâng mình trọn vẹn từ những người sẽ trở thành những môn đồ của Ngài.

Ẩn Dụ Về Những Thứ Bị Lạc Mất

Chương 15 bắt đầu bằng việc cho chúng ta biết có hai sự đáp ứng rất khác nhau đối với bài giảng đầy năng lực của Chúa Jêsus. Các nhân viên thu thuế và những kẻ có tội đã đáp ứng lại bài giảng của Ngài rất nồng nhiệt. Họ đến gần và ngồi thành vòng tròn quanh Ngài. Còn bọn người Pharisi và các thầy thông giáo thì lùi ra xa khoảng hai mươi bước chân và ngồi thành vòng tròn ở bên ngoài. Chúa Jêsus đưa ra một ẩn dụ vĩ đại nhất của Ngài nói về hai vòng tròn đồng tâm của hai hạng người rất khác nhau: Ngồi gần với Chúa Jêsus nhất là vòng tròn nhỏ ở trong bao gồm những người có tội và người thu thuế là những người đang được cứu. Kế đó, có một vòng tròn lớn hơn ngồi bên ngoài là của mấy người sùng đạo nhưng đã lùi ra xa và thắc mắc: “Tại sao Người nầy lại tiếp xúc với những kẻ có tội và bọn thu thuế?” Sự dạy dỗ tuyệt vời nầy của Chúa Jêsus không phải như một số người đã tưởng rằng đó là một loạt những câu chuyện ngụ ngôn, nhưng nó là một “Ẩn dụ về những thứ bị lạc mất”.

Ẩn dụ nầy chủ yếu nói đến những người ở vòng tròn ngoài, giải thích cho họ biết điều gì đang xảy ra với những người ở vòng tròn trong. Tại đây, Chúa Jêsus cũng đang kêu gọi những người ở vòng tròn ngoài hãy tham dự với Ngài vào những việc đang diễn ra ở vòng tròn bên trong.

Chúa Jêsus bắt đầu ẩn dụ đó như vầy: “Một người nọ có một trăm con chiên nhưng bị lạc mất một con. Người liền để chín mươi chín con lại đó rồi vội chạy đi tìm con chiên bị lạc. Khi tìm thấy chiên, người nói: ‘Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được con chiên lạc mất.’ Tương tự như vậy, thiên đàng sẽ vui mừng mỗi khi có một kẻ phạm tội ăn năn”.
Chúa Jêsus đang nói các lời ấy với ý muốn bảo những người ở vòng ngoài rằng: “Các ngươi hãy nhìn vào những người ở vòng trong mà xem, toàn là những người thâu thuế, kẻ có tội, bọn ma cô, phường điếm đĩ, những kẻ chuyên lừa đảo và là quân trộm cướp. Nhưng hãy để Ta nói cho các ngươi biết Đức Chúa Trời nhìn thấy gì. Ngài nhìn thấy những người nầy giống như những chiên đi lạc. Hễ khi nào có một con chiên lạc được tìm về, thì thiên đàng sẽ có sự vui mừng.” Chúa Jêsus đang thách thức những người ở vòng ngoài thế nầy: “Đức Chúa Trời luôn coi trọng đến những tội nhân bị lạc mất. Vậy tại sao các ngươi lại không vui mừng khi những chiên lạc nầy được tìm về?”

Kế tiếp, Chúa Jêsus kể câu chuyện về đồng bạc bị lạc mất. Ngài nói, một người phụ nữ kia có mười đồng bạc và bà ta làm mất một đồng. Bà thắp đèn lên, lấy chổi quét nhà, lục lọi, tìm kiếm suốt cả ngày cho đến khi tìm được đồng bạc bị mất đó mới thôi. Khi tìm được rồi, bà liền nói với bạn bè mình: “Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc bị mất!” Chúng ta có thể có nhiều cách hiểu đối với ẩn dụ nầy. Tuy nhiên nội dung chính ở đây là đồng bạc do người phụ nữ nọ sở hữu bị lạc mất và sau đó đã được tìm lại.Khi còn là một đứa trẻ, tôi đã đánh rơi một đồng tiền có giá trị. Đồng tiền ấy lăn xuống một cái rãnh thoát nước được đậy bên trên một tấm vĩ sắt.Đồng tiền tôi đánh rơi nằm cách tôi khoảng bốn mươi centimét nhưng tôi với tay không tới vì những ô trống của tấm vĩ sắt quá bé nên tôi không thể thò tay vào lấy. Tôi như muốn điên lên được.

Có một ông già cầm cây dù đi ngang qua liền vui vẻ đến giúp tôi. Ông ta nhả miếng kẹo gum trong miệng ra rồi lấy dán nó vào đỉnh cán dù. Sau đó ông thọt cán dù đó xuống rãnh thoát nước, rà đầu cán dù có miếng gum tới cho dính vào đồng tiền rồi kéo nó lên và gỡ đồng tiền ra đưa cho tôi. Đồng tiền đó bấy giờ đã trở nên có giá trị gấp hai lần bởi vì tôi đã đánh mất nó nhưng bây giờ tìm lại được rồi.“Chuộc lại” có nghĩa là “mua trở lại” hoặc “mang trở về” những thứ đã bị lạc mất. Bạn và tôi giờ đây trở nên quý giá hơn đối với Đức Chúa Trời, bởi vì chúng ta giống như đồng tiền bị lạc mất kia mà Chúa đã tìm lại được qua sự cứu chuộc bằng sự chết và sự phục sinh của chính Con Ngài.

Đó là thực chất khái niệm của sự cứu chuộc và của đồng tiền bị lạc mất nhưng đã tìm lại được trong ẩn dụ của Chúa Jêsus. Rõ ràng đây là một ẩn dụ về sự cứu chuộc là điều Kinh thánh đã dạy trong các sách Xuất Êdíptô Ký, Phục Truyền Luật Lệ Ký, Rutơ, và qua các thư tín của các sứ đồ trong Tân ước (I Phi 1:18-19). Chắc chắn Chúa Jêsus đang nói với những
người ở vòng ngoài rằng: “Những người nầy đã bị lạc mất nhưng nay họ đang được chuộc lại. Kìa! Tất cả các thiên sứ trên trời đang vui mừng biết bao! Vậy tại sao các ngươi lại không vui mừng hả?”Chúa Jêsus lại kể: “Một người kia có hai con trai. Đứa con thứ nói với cha nó: Cha à! Hãy cho con những gì sẽ thuộc về con vì con muốn đi phương xa để làm ăn.” Đây là câu chuyện nói về người con trai hoang đàng rất quen thuộc. Chúa Jêsus mượn nội dung câu chuyện nầy để nói về những hạng người tại hai vòng tròn đồng tâm đang được đề cập ở đây. Ngài dùng ẩn dụ về người con trai hoang đàng để dạy cho những kẻ đang ở vòng tròn ngoài biết điều gì đang diễn ra với những người ở vòng tròn trong. Chúa muốn nói với những người Pharisi đã tự cho mình là người công chính: “Có một số trong những người nầy là những người con phóng đãng đang trở về nhà mình.

Tất cả các thiên sứ trên trời thảy đều đang vui mừng. Vậy tại sao các ngươi lại tỏ ra không vui khi những người con hoang đàng nầy đang quay về nhà?”Tóm lại, nội dung của ẩn dụ tuyệt vời nầy là sự miêu tả sinh động của Chúa Jêsus khi Ngài muốn nói với những kẻ vòng ngoài rằng: “Tất cả các ngươi chỉ nhìn thấy họ là những người thâu thuế và những người tội lỗi mà thôi! Hãy để Ta nói cho các ngươi biết Đức Chúa Trời nhìn thấy gì. Ngài nhìn thấy họ như chiên đi lạc không phân biệt được phải quấy,nhưng họ đang được tìm về và cả thiên đàng đang vui mừng về họ. Đức Chúa Trời nhìn thấy họ như đồng bạc bị lạc mất kia. Ngài đang chuộc lại và làm cho hồi tâm tỉnh trí những ai lầm đường lạc lối. Đức Chúa Trời nhìn thấy họ như những con cừu non, và thậm chí tự họ cũng nhận thấy mình như vậy, nhưng họ không phải là những cừu non bình thường bởi vì họ đang phải sống trong những chuồng chiên hôi hám của thế gian nầy. Họ đang trở về từ những chuồng chiên ấy bởi vì họ là những đứa con thừa tự! Cả thiên đàng đều vui mừng khi những kẻ lạc mất được tìm về. Thế tại sao các ngươi lại không vui mừng?”Khi tâm đắc với ẩn dụ về người con trai hoang đàng mà chúng ta vừa được dạy dỗ, chắc chắn chúng ta sẽ thấy được trọng tâm câu chuyện lúc đứa con phóng đãng quay về. Có một buổi đại tiệc vui vẻ. Người ta làm thịt bò con mập. Anh trai của người con hoang đàng đang làm công việc lao động khó nhọc thường ngày vội chạy về nhà. Anh ta là người luôn làmviệc vất vả mỗi ngày để giúp đỡ cha mình. Anh liền hỏi một trong số các đầy tớ: “Có chuyện gì mà cha tôi lại tổ chức tiệc tùng um sùm vậy?” Người đầy tớ thành thực đáp: “Ồ! Em trai anh mới về nhà và ông chủ liền giết bò con mập, ông ấy vì vui mừng quá đỗi nên đã không giấu được niềm vui của mình.”

Kế đó chúng ta thấy người anh cả nổi giận không chịu vô nhà để cùng chung vui với cha mình tổ chức bữa tiệc mừng đứa em vừa mới trở về. Tuy nhiên người cha, hình ảnh của một ông cụ già chạy đến giang tay ôm chầm lấy đứa con bị thất lạc của mình, nhưng ông cũng rất yêu thương người con trai cả. Ông ra năn nỉ: “Con à! Con luôn luôn ở bên cha và trung thành với cha, mọi thứ gì của cha cũng chính là của con, còn em trai con thì bị lạc mất, con không hiểu sao? Và bây giờ nó đã được tìm về. Nó đã chết nhưng nay được sống lại.Vậy tại sao con không vào cùng dự tiệc mừng vì phép lạ đặc biệt nầy hả con?” Ngụ ý thâm thúy nầy đã giải thích cho nội dung ẩn dụ tuyệt vời mà chúng ta vừa được dạy dỗ. Người con trai cả trong câu chuyện được ví như vòng tròn ngoài gồm những người Pharisi và các thầy thông giáo, là những người đã không chịu dự phần với các thiên sứ trên trời mở tiệc mừng đón những kẻ lạc mất trở về. Người Cha đang cố nài nỉ đứa con cả hãy tham gia bữa tiệc mừng kia chính là Chúa Jêsus đang mời gọi các vị lãnh đạo tôn giáo hãy dự phần với Ngài, thực hiện mục đích sứ mạng vĩ đại của Ngài, tìm kiếm và cứu vớt những ai bị hư mất như đã được tuyên bố trong những câu Kinh thánh nền tảng của Phúc âm nầy (Luca 4:18;19:10).

Về một phương diện nào đó thì những gì Chúa Jêsus đang làm ở đây đều giống với việc Ngài đã làm khi Ngài bảo Phierơ đưa Ngài đi đánh cá vậy (Luca 5:1-11). Mặc dù không thể chứng minh được điều nầy, nhưng theo tôi, đây là sứ mệnh vĩ đại nhất mà Chúa Jêsus đã từng kêu gọi được một trong số những chức sắc tôn giáo ở vòng tròn ngoài thực hiện – đó là Saulơ người Tạtsơ.

Bạn hãy hình dung ra khung cảnh Chúa Jêsus đang đứng giữa vòng tròn trong gồm các kẻ thâu thuế và tội lỗi, Ngài mời gọi mấy nhà lãnh đạo tôn giáo kia hãy tham gia vào công tác cứu chuộc những linh hồn bị hư mất, chắc chắn bạn sẽ thấy sự mời gọi đầy nhiệt tâm trong ẩn dụ hấp dẫn kia, chính là sự mời gọi của Chúa Jêsus đang dành cho bạn và tôi, hãy dự phần với Ngài thực thi bản Tuyên ngôn Naxarét của Ngài. Với suy nghĩ cá nhân, tôi có thể nói rằng Chúa Jêsus đang dạy dỗ cho tất cả những người thuộc nhiều hệ phái khác nhau coi
mình là Hội thánh của Ngài ngày nay, tại sao chúng ta là những người Tin lành tự hào về Tin lành mà lại không chia sẻ Tin lành cho những người đang bị hư mất?

Hai Ẩn Dụ Về Người Giàu Có

Trong chương 16, chúng ta thấy có hai ẩn dụ đáng sợ của Chúa Jêsus về người giàu có. Chúng ta sẽ gặp cả hai chuyện nầy ở phần nội dung của ẩn dụ về những thứ bị lạc mất mà Chúa Jêsus đã dạy trong chương 15. Chúa Jêsus kể cho các môn đồ Ngài nghe hai ẩn dụ nầy, nhưng khi Ngài vừa kể xong câu chuyện thứ nhất thì bọn người Pharisi lấy làm bực mình
khó chịu. Điều nầy có nghĩa là họ đã hiểu hết những sự dạy dỗ mà Chúa Jêsus đã cố tình dùng hai câu chuyện nầy để nói về họ.

Ẩn dụ thứ nhất kể về một người giàu có, đó là “Ẩn dụ về người quản gia bất trung”. Chuyện nầy có vẻ như là một minh họa tiêu cực, nhưng thực chất nó lại là lời tuyên bố tích cực về việc thực thi với Đấng Christ trong bản Tuyên ngôn Naxarét của Ngài. Câu chuyện thứ hai “Người giàu và Laxarơ” là lời tuyên bố rất tiêu cực về một kẻ hoàn toàn đối ngược với cộng sự mà Chúa Jêsus đang chiêu mộ.

Câu chuyện thứ nhất làm rối trí một số người bởi vì họ tin rằng trong câu chuyện nầy Chúa Jêsus có vẻ tán đồng những việc làm ám muội của một kẻ tham ô. Họ đã không hiểu hết ý nghĩa của ẩn dụ nầy một cách đúng đắn. Chuyện kể về một người kia có một quản gia là người lo việc quản lý tài sản. Đây là câu chuyện mà chúng ta tìm thấy ở đó một trong những từ ngữ quan trọng nhất của Tân ước. Cựu ước dạy dân sự Đức Chúa Trời về việc dâng phần mười, và việc tiếp theo sau là dâng các của lễ,dâng các sinh tế có giá trị thay cho họ ở một mức độ nào đó (II Sam 24:24). Nhưng khi đến Tân ước, bạn sẽ gặp một từ rất thực tế là từ “Quản gia”. Khái niệm về “sự quản lý” không phải là bạn sẽ dâng cho Đức Chúa Trời phần mười của những gì bạn có hoặc bạn đạt được. Nhưng nó có nghĩa là mọi thứ bạn có và tất cả những gì của bạn đều thuộc về Ngài. Đó chính là sự quản lý. Bạn có đang quản lý những thứ mà Chúa đã ban cho bạn vì trách nhiệm của bạn không? Những thứ đó không chỉ bao gồm tiền bạc của bạn mà còn là tài năng, thì giờ, sức lực, những ân tứ và các talâng của bạn nữa. Chung quy lại là tất cả những gì bạn có.

Hãy nhớ cho rằng bất cứ một ẩn dụ nào được nói đến ở đây, đều là những ẩn dụ chứa đựng lẽ thật nào đó mà Chúa Jêsus muốn dạy dỗ chúng ta. Lẽ thật Ngài đang muốn đề cập đến là sự quản lý. Câu chuyện Ngài đưa ra kèm theo lẽ thật là câu chuyện có nội dung kể về một người giàu có, người nầy có một quản gia. Ông ta nghe nói quản gia của ông không làm tốt công việc quản lý của mình, chẳng hạn như làm thất thoát tiền bạc và thậm chí còn tham ô biển thủ tài chánh của ông nữa. Ông liền bảo tay quản gia nọ hãy đi gọi các soát sổ viên đến kiểm tra sổ sách.

Thế rồi, người quản gia ngồi xuống và tự nhủ: “Ngay bây giờ mình còn có quyền cai quản tiền bạc của chủ, chứ để đến lúc mấy viên soát sổ kia đến kiểm tra xong sổ sách thì chắc
chắn mình sẽ bị đuổi việc và đâu còn có thể kiểm soát tài chánh của chủ nữa. Vậy bây giờ mình phải làm gì đây?” Nghĩ thế nên hắn ta quyết định lập kế hoạch đi gặp mấy kẻ đang
mắc nợ chủ mình.
Hắn ta có chiến lược lo xa cho tương lai mình nên lý luận rằng: “Hiện giờ ta đang sống trong một nơi mà ta được thuê để quản lý tiền bạc, tài sản, của cải vốn không phải của ta. Ta sẽ có cách sử dụng những tài sản nầy là những thứ không thuộc quyền sở hữu của ta, để trong những ngày đến khi bị sa thải ta đâu còn được quyền quản lý tài sản của chủ nữa. Nên ta sẽ kết nhiều bạn để họ sẽ vui vẻ tiếp đón ta. Rồi họ sẽ bày tỏ cho ta lòng mến khách của họ khi ta không còn nơi nương tựa.”

Khi chủ của người quản gia nầy (là người chủ đã thuê hắn – chứ không phải Chúa Jêsus) nghe được những việc hắn ta đã làm, ông không khen ngợi hắn bởi vì hắn là một kẻ tham ô. Có một bản dịch nói là: “Hắn ta được khen ngợi bởi vì hắn nghĩ đến tương lai của mình.”

Ứng Dụng Cá Nhân

Khi kể cho chúng ta nghe câu chuyện nầy, Chúa Jêsus muốn dạy chúng ta lẽ thật gì? Ý nghĩa và sự ứng dụng của ẩn dụ nầy quả thật rất thâm thuý. Chúa Jêsus muốn bảo rằng: Các ngươi giống như tay quản gia kia. Mọi thứ các ngươi có thực sự đều thuộc về Đức Chúa Trời. Còn các ngươi chỉ là kẻ quản lý những gì mà mình được ban cho mà thôi. Tương tự như viên quản gia nọ khi hắn ta biết mình sắp bị đuổi việc, thì cũng là lúc các ngươi biết mình sắp lìa đời nầy và sẽ không còn có thể quản lý tất cả tiền tài, của cải mà Đức Chúa Trời đã giao cho mình quản lý nữa. Thế rồi, bạn sẽ nghe tiếng nói nghiêm chỉnh rằng: “Ngươi không còn là quản gia nữa. Nào! bây giờ hãy giao lại bản kê khai về sự quản lý của ngươi đi!”

Cốt lõi của ẩn dụ trên là nói về việc người quản gia nọ đã sống theo hai lối sống. Ở lối sống thứ nhất, hắn ta có quyền cai quản tiền bạc, tài sản của chủ mình, nhưng hắn biết rõ rồi đây mình phải rời khỏi công việc nầy và sẽ sống theo lối sống thứ hai, tức là khi hắn không còn có quyền quản lý nữa. Trong khi còn sống theo lối sống thứ nhất, hắn ta dùng tài quản
trị của mình sử dụng tài sản của chủ theo những cách thức nào đó để hắn có thể kết được nhiều bạn, là những người sẽ tiếp rước hắn khi hắn bước vào lối sống thứ hai.Giống như người quản gia bất trung kia đã dùng của cải vốn không phải của mình để kết bạn ở lối sống thứ hai, chúng ta cũng hãy sử dụng những gì mình có để kết bạn ở đời sống thứ hai như vậy, tức là ở vương quốc đời đời. Khi chúng ta bị “sa thải” hoặc qua đời, chúng ta sẽ có nhiều bạn đang chờ đón chúng ta bước vào nơi ở vĩnh hằng, là nơi có sự sống đời đời.

“Người khôn ngoan có tài được linh hồn người ta” (Châm 11:30). Đó là điều mà câu chuyện ẩn dụ nầy thực sự muốn dạy dỗ ở đây. Hãy sử dụng những gì bạn đã được ban cho trong cuộc sống hiện tại bằng mọi cách, để đến lúc qua đời thì sẽ có nhiều người tại vương quốc đời đời nói với bạn thế nầy: “Anh đã dâng tiền bạc cho một phái đoàn truyền giáo nọ giúp họ thực hiện được cuộc truyền giáo rao giảng Phúc âm ra cho mọi người. Và chính trong dịp ấy, chúng tôi đã gặp được Chúa Cứu Thế. Nếu như anh không từng làm người quản gia trung tín thì chắc chắn chúng tôi sẽ không được có mặt ở vương quốc đời đời nầy đâu!”

Mặt khác, ẩn dụ trên còn có ý dạy dỗ rằng tất cả những gì bạn có đều thực sự không phải của bạn, và bạn cũng sẽ không thể đem chúng theo. Nhưng, bạn có thể dùng chúng để mua các cổ phần cho bạn ở trên thiên đàng. Có một cách giúp bạn có thể mua được cổ phần trên thiên đàng là bạn hãy quản lý tiền bạc, tài sản mình có theo phương cách nào đó để cho Vương quốc Đức Chúa Trời được mở rộng và để cho Chúa Jêsus Christ xây dựng Hội thánh Ngài. Người ta có thể đến tiếp nhận sự cứu rỗi của Chúa Cứu Thế bởi vì bạn là người
trung tín quản lý những gì Ngài đã giao phó cho bạn.

Sau khi kể xong câu chuyện nầy, Chúa Jêsus đã đưa ra sự áp dụng nghiêm túc nầy: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, cũng trung tín trong việc rất lớn. Ai bất nghĩa trong việc rất nhỏ,cũng bất nghĩa trong việc lớn. Vậy, nếu các ngươi không trung tín về của bất nghĩa (tiền tài), có ai đem của thật giao cho các ngươi ?” Sự liên hệ nầy thực chất có nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ không ban phước cho chúng ta về phương diện thuộc linh nếu chúng ta không trung tín trong việc quản lý tiền bạc. Ở đây hoàn toàn không nói đến vấn đề chúng ta phải dâng bao nhiêu tiền mà là nói đến việc chúng ta sử dụng cai quản như thế nào cho tốt những thứ mà chúng ta đã được trao ban. Hãy trung tín, đó là tính thiết yếu cần có nơi người làm chức vụ quản lý, và đó cũng là sự dạy dỗ chính của câu chuyện.

Bạn có đang cùng với Chúa Jêsus thực hiện bản Tuyên ngôn của Ngài không? Hiện nay bạn có đang dự phần cùng Đấng Christ để thực thi sứ mệnh vĩ đại của Ngài trong thế gian không? Bạn có thể thực hiện những điều đó trong vai trò một nhà truyền giáo, một tín đồ rao giảng Phúc âm, một mục sư, hoặc một chứng nhân trung tín cho Chúa Jêsus Christ. Theo ẩn dụ nầy, bạn cũng có thể làm những điều đó bằng cách trung tín đầu tư vào những công việc mà Đức Chúa Trời đã uỷ nhiệm cho bạn, chẳng hạn góp phần dâng tài chánh cho những người đang dự phần với Chúa là các nhà truyền giáo, mục sư truyền đạo, cùng những chứng nhân trung thành của Đấng Christ.

Có rất nhiều cách để dự phần với Chúa Cứu Thế, nhưng trước hết tôi cần hỏi bạn câu nầy, bạn có thực sự muốn cùng Đấng Christ hằng sống, phục sinh thực hiện các mục đích sứ mệnh của Ngài ở giữa thế gian nầy không? Nhiều sự dạy dỗ của Chúa Jêsus cho chúng ta biết rằng chúng ta sắp sửa sống mãi trong tình trạng đời đời với một thực tế đáng sợ theo cách mà chúng ta trả lời cho các câu hỏi trên ngày nay.

Trong ẩn dụ thứ hai nói về một người giàu có, Ngài kể rằng: “Có một người giàu nọ hằng ngày sống xa hoa, mặc áo tía và áo bằng vải gai mịn sang trọng, ở trong một lâu đài rất tiện nghi sung sướng mà trên đời nầy không còn gì bằng. Thường nằm trước cổng nhà ông ta là một người nghèo tên là Laxarơ đang sống trong cảnh tồi tệ nhất trần gian”.

Nếu bạn nghĩ câu chuyện nầy như thể một vở kịch có ba màn, thì ở màn một, bạn sẽ thấy đêm đêm, người giàu kia nằm ngủ trên nhung lụa, và ngày đến thì ăn uống thoả thích tại bàn tiệc sang trọng của mình. Lại mỗi ngày, khi đi ra đi vào cổng nhà, ông ta phải nhìn thấy một người ăn mày nằm đó và có chó đến liếm ghẻ người. Người giàu ấy đang hưởng cuộc sống sung sướng nhất trần gian; còn người nghèo Laxarơ kia thì đang sống đời sống khổ ải nhất trong đời nầy. Đó chính là Màn Một của vở kịch.

Màn Hai nói về sự chết của cả hai người. Cả hai đều qua đời. Sự chết là mẫu số chung thú vị nhất cho cả hai. Người giàu chết đi trên nhung lụa phú quý trong toà lâu đài sang trọng của mình, được an táng theo nghi lễ rườm rà. Còn Laxarơ thì nằm chết ngay ngoài cổng nhà của người giàu nọ. Chúng ta không thấy Laxarơ được chôn cất gì cả. Có thể giả định rằng lúc ấy có một đội làm công tác vệ sinh môi trường kéo đến nhặt xác người quăng lên trên một chiếc xe ngựa nào đó. Thế rồi thi thể của người có lẽ đã bị ném chung với bao rác rưởi vào trong một đống rác khổng lồ nọ nằm ở ngoại vi thành Giêrusalem, được gọi là trũng “Hinôm”.Khi bức màn sân khấu của Màn Ba được kéo lên, chúng ta sẽ khám phá ra lẽ thật mà Chúa Jêsus muốn dạy dỗ chúng ta khi Ngài kể câu chuyện nầy. Bấy giờ, cả hai người kia đều đang ở trong nơi ở đời đời của mỗi người. Kẻ ăn mày Laxarơ thuở nào, hiện đang sống đời sống tốt đẹp không gì sánh bằng. Người đang ở trong lòng Ápraham, điều nầy có nghĩa là
người đang có mối tương giao hết sức mật thiết với Ápraham. Còn người giàu kia thì ở nơi địa ngục trầm luân, phải hứng chịu những gì tồi tệ nhất.

Chúng ta đọc thấy ông ta đang ở trong sự đau đớn, khốn nạn, khổ sở vô cùng. Có một vực sâu thẳm phân cách giữa hai người và không ai có thể qua lại được. Khi người giàu kêu lên: “Hỡi Ápraham tổ phụ của tôi ơi! Xin sai Laxarơ nhúng đầu ngón tay vào nước và đến nhỏ vào lưỡi tôi; vì tôi bị khổ trong lửa nầy quá đỗi!” Nhưng Ápraham đã trả lời thế nầy: “Không được, bởi vì hiện giờ đang có một vực thẳm lớn phân cách giữa ngươi và Laxarơ đến nỗi có ai muốn từ chỗ Laxarơ qua chỗ ngươi cũng không thể nào qua được. Và có ai muốn từ chỗ ngươi sang chỗ của Laxarơ cũng chẳng thể nào sang được. Đã có sự ngăn cách rồi.”Lúc ấy, người giàu hiểu ra được vấn đề nên hết sức lo sợ cho năm anh em còn lại của mình hiện ở trên dương gian. Người bèn kêu nài: “Thưa Ápraham tổ phụ tôi ơi! Vậy thì xin Người hãy khiến Laxarơ từ kẻ chết sống lại và hãy sai anh ta mau đi khuyên bảo năm anh em của tôi để họ sẽ không phải đi đến nơi ở khốn khổ đau đớn nầy!” Ápraham bảo: “Họ đã có Môise và các đấng tiên tri rồi. Cứ để họ nghe lời khuyên của các vị ấy!” Người giàu đáp: “Ồ! Nhưng nếu có ai đó từ kẻ chết sống lại đến khuyên họ thì chắc họ sẽ tin liền!”

Chúa Jêsus đánh giá rất cao về những lời rao bảo đã được Đức Chúa Trời hà hơi của Môise và của các đấng tiên tri qua lời Ápraham đáp lại người giàu nọ: “Nếu họ không tin Môise và các đấng tiên tri, thì họ cũng sẽ chẳng tin ai cho dầu người đó có từ kẻ chết sống lại đi chăng nữa!” Điều nầy quả thật đã được ứng nghiệm khi Chúa Jêsus sống lại từ kẻ chết và Ngài tuyên bố Phúc âm có thể giúp con người thoát khỏi số phận như số phận của người giàu kia, nhưng người ta đã không tin lời Ngài.

Thật là một câu chuyện hãi hùng biết bao! Đây là bức tranh sinh động mô tả nơi ở đời đời mà Kinh thánh nói đến. Đó là nơi cho chúng ta các khái niệm về lửa hừng hực cháy, đầy sự nguyền rủa với những cảnh tượng đoạ đày vô tận, về những sự trừng phạt khủng khiếp và về những thống khổ triền miên không dứt. Không phải đây là sự dạy dỗ duy nhất của Chúa Jêsus về địa ngục. Rằng có một nơi rất khủng khiếp chẳng khác nào địa ngục nằm bên ngoài thành Giêrusalem được gọi là “Trũng Hinôm” – từ ngữ mà Chúa Jêsus đã dùng tượng trưng để cho dễ hiểu hơn khi Ngài nói về địa ngục. Từ nầy miêu tả một cái trũng khổng lồ nằm ngay bên ngoài thành Giêrusalem, nơi mà mọi thứ rác rưởi đều được người ta ném vào đó kể cả xác chết động vật và thi thể của những người nghèo bị chết. Khi vài trang sử vô cùng đen tối của dân tộc Hêbêrơ đã được viết, thì đó là thời kỳ mà các bậc cha mẹ người Do Thái đem chính con cái mình làm sinh tế dâng lên cho các thần ngoại giáo tại trũng nầy. Chúa Jêsus đã dùng từ ngữ “trũng Hinôm” lúc Ngài dạy rằng nếu chúng ta mắng anh em mình là đồ ngu thì chúng ta đã có nguy cơ phải vào địa ngục rồi. Từ nầy đưa đến khái niệm về sự hư mất. Theo Chúa Jêsus thì,được cứu thoát khỏi địa ngục tức là được cứu thoát khỏi đời sống hư mất.

Tuy nhiên, câu chuyện người giàu và Laxarơ là một sự mô tả rất rõ ràng về số phận cuối cùng của những ai không được cứu rỗi. Một trong những điều kinh khủng nhất của nơi ở đời đời như đã được mô tả sống động đó là người giàu kia vẫn cứ luôn có tri giác. Lúc nào người cũng phải nhớ về quãng đời mình đã sống trên dương gian sáu, bảy mươi năm gì đó.Người đã làm gì với suốt quãng đời ấy của mình? Và bây giờ người sẽ phải mãi mãi sống trong đau khổ đọa đày với câu hỏi ấy.

Câu chuyện nầy được kể tiếp theo sau ẩn dụ về người quản gia bất trung. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta mỗi người một cuộc đời và chúng ta là những người quản lý suốt cả cuộc đời đó chứ không chỉ quản lý tiền bạc mình có mà thôi, và quản lý tiền bạc thực sự là việc ít quan trọng nhất đối với cương vị quản gia của chúng ta. Đời sống, thì giờ, sức lực, các ân tứ, khả năng, và sức khoẻ của chúng ta hết thảy đều cần thiết cho cả cuộc đời chúng ta. Câu hỏi trường tồn mà người giàu kia luôn phải đối diện là: “Ngươi đã làm gì với cả cuộc đời mình?”

Trong ẩn dụ về người quản gia bất trung, Chúa Jêsus đang hỏi bạn và tôi: “Các ngươi có sẵn lòng cùng với Ta để thực thi và ứng dụng bản Tuyên ngôn của Ta bằng cách trung tín quản trị đời mình và mọi thứ mà các ngươi được giao phó hay không?” Câu chuyện thứ hai kể về một người giàu nầy là sự minh họa kinh hãi cho kẻ nào đáp lại câu hỏi trên của Chúa Jêsus bằng tiếng: “Không!”

Ứng dụng của câu chuyện thứ hai còn hướng đến lòng nhân ái của Chúa Jêsus và vị thầy thuốc Luca đầy lòng trắc ẩn. Lúc đọc câu chuyện nầy, chúng ta cũng thấy được có nhiều chi tiết nói về nơi ở đời đời thật hết sức sinh động nhưng đầy bi kịch mà chúng ta có thể sẽ không nhìn thấy trong những ứng dụng của câu chuyện vào thực tế xã hội.

Có một người tên là Albert Schweitzer nói rằng sự dạy dỗ của Chúa Jêsus qua câu chuyện trên đã biến đổi cuộc đời anh mãi mãi. Anh đã từ bỏ tất cả mọi tài sản biểu trưng cho uy thế của một chủ nhân, và từ bỏ mọi thú giàu sang, phú quý mà anh đã hưởng thụ như một trong số những nhạc công chơi đàn organ, những nhà triết học, những bác sĩ y khoa, và những nhà thần học tiếng tăm lừng lẫy ở Châu Âu. Thế rồi, anh đi đến Châu Phi và trở thành một nhà truyền giáo trong lĩnh vực y học. Anh đem ứng dụng y học vào một vùng quê hẻo lánh của Châu Phi là nơi có rất nhiều người bị bệnh. Và nếu như anh không đến đó chữa trị cho họ thì chắc hẳn họ sẽ không nhận được bất cứ sự chữa trị và sự chăm sóc y tế nào cả.Schweitzer bảo khi anh ta đọc câu chuyện nầy của Chúa Jêsus, anh đã mau chóng nhận thấy rằng người tên Laxarơ đang nằm tại cổng nhà của người giàu kia chính là một thế giới đau khổ đang nằm ngay cổng nhà của cuộc sống chúng ta.

Khi Schweitzer đến Châu Phi, anh nói: “Châu Phi là Laxarơ”. Anh còn tuyên bố: “Đời là một cuộc tranh luận”. Tôi nghĩ đó là một câu nói có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Schweitzer đã dùng cuộc đời mình đúc kết nên câu nói nầy nữa: “Những gì chúng ta thật sự tin, chúng ta sẽ làm. Còn tất cả những gì còn lại chỉ là lời nói giáo điều. Tôi vẫn thường tự hỏi không biết bạn và tôi có biết Laxarơ là ai không nhỉ?”Theo tôi, lời thách thức của sự dạy dỗ vĩ đại nầy là hãy suy gẫm bức tranh sống động nhưng đầy bi kịch, mô tả nơi ở đời đời dành cho những người hư mất mà Chúa Jêsus đã vẽ lên.

Viễn cảnh của sự trừng phạt đời đời sẽ thúc đẩy chúng ta hãy mau rao giảng sự cứu rỗi của Chúa ra cho tất cả những ai chưa từng nghe Phúc âm. Giống như sứ đồ Phaolô, chúng ta được thúc đẩy hành động bởi ba sứ mệnh sau đây: Có một người đã chết vì mọi người, tất cả loài người đều hư mất, và toàn nhân loại phải được nghe Tin lành (IICôrinhtô 5:13- 62).Tuy nhiên, câu chuyện trên còn có một ứng dụng nữa đã được nhấn mạnh và đóng vai trò chủ đạo trong Phúc âm Luca. Đó là: Bạn và tôi có sẵn sàng dự phần với Chúa Jêsus thi hành và áp dụng thực tế các mục đích sứ mệnh mà Ngài đã nêu lên trong bản Tuyên ngôn Naxarét của Ngài vào trong đời nầy hay không? Chúng ta có sẵn lòng tham gia với Ngài đem ánh sáng đến cho người mù, giải phóng người bị trói buộc, chữa lành người bị đau thương, hà hiếp trên thế gian nầy hay không?

Ba Triết Lý Sống

Trong Phúc âm Luca, chúng ta hãy tìm thử xem có bao nhiêu lần và bao nhiêu chỗ nói về việc Chúa Jêsus thách thức chúng ta hãy dự phần với Ngài thi hành bản Tuyên ngôn của Ngài. Chắc có lẽ vì Luca là thầy thuốc nên chỉ có ông là tác giả duy nhất ghi lại cho chúng ta câu chuyện ẩn dụ về người Samari nhơn lành. Chúa Jêsus kể câu chuyện nầy rằng có một người kia bị cướp và bị bỏ mặc dở sống dở chết bên vệ đường. Sau khi anh ta bị bọn cướp trấn lột, đánh cho trọng thương rồi bỏ lại đó sắp chết, thì có ba người khác lần lượt đi ngang nhìn thấy anh đang nằm bơ vơ tuyệt vọng bên đường (Luca 10:25-37).

Con đường trong câu chuyện nầy chạy từ thành Giêrusalem đến thành Giêricô. Các thầy tế lễ thường đi trên con đường đó về lại Giêricô sau khi làm xong công việc mình ở Đền thờ của Salômôn. Lần ấy, có hai trong số các thầy tế lễ ấy đi về ngang qua trông thấy người bị cướp sắp chết đang nằm một mình ở đó trong tình trạng khủng khiếp, nguy kịch. Có lẽ người nầy bảo người kia rằng: “Anh có muốn xen vào vấn đề người nầy thì cứ việc! Còn tôi, tôi không muốn liên lụy!” Chúng ta đọc thấy họ tránh sang bên kia đường rồi đi luôn.

Tuy nhiên, có một người Samari cũng đang đi trên con đường đó. Khi người thấy nạn nhân sắp chết, liền lại gần sơ cứu băng bó các vết thương rồi đỡ nạn nhân lên lưng con vật mình đang cỡi đưa đến một quán trọ. Sau khi trả một số tiền cho chủ quán, người ấy bảo: “Nếu còn thiếu, lúc quay về tôi sẽ trả thêm!”

Sự dạy dỗ trong ẩn dụ nầy thay cho câu trả lời của Chúa Jêsus, khi có một thầy dạy luật hỏi Ngài: “Ai là người lân cận tôi?” Câu trả lời sâu sắc nầy của Chúa trình bày về ba triết lý sống của ba loại người lân cận. Sau khi kể xong câu chuyện nầy, Chúa Jêsus đã trả lời thầy dạy luật bằng một câu hỏi: “Vậy, trong ba người đó, ai là người lân cận thật?”

Trước hết, Chúa dùng hình ảnh bọn cướp là những kẻ đã đánh người đàn ông kia bị thương nguy đến tính mạng để giải đáp thắc mắc của thầy dạy Luật. Triết lý sống của bọn cướp rằng: “Cái gì của tôi là của tôi. Cái gì của anh rồi đây sẽ là của tôi vì trước sau gì tôi cũng chiếm đoạt chúng”. Ngày nay có rất nhiều người trên thế gian đang sống với triết lý nầy. Đó
là lý do tại sao chúng ta cần phải có chính quyền, cảnh sát và quân đội.

Thầy tế lễ và người Lêvi – hai nhân vật ngoan đạo trong câu chuyện thể hiện cho triết lý sống thứ hai của người lân cận: “Cái gì của tôi là của tôi và cái gì của anh là của anh.Tôi có hạnh phúc của tôi và anh có hạnh phúc của anh. Tôi có những vấn đề riêng của tôi và anh có những vấn đề riêng của anh. Đúng là anh đang gặp rắc rối, nhưng triết lý sống của tôi là: ‘Hãy sống và cứ sống. Cái gì của tôi là của tôi; cái gì của anh là của anh. Tôi không muốn can hệ đến chuyện người khác!” Hiện nay, có rất nhiều người ngoan đạo vẫn thường sống với triết lý như vậy.

Trong câu chuyện còn có câu trả lời thứ ba cho câu hỏi của Chúa Jêsus về triết lý sống của chúng ta và của người lân cận. Rõ ràng Chúa đã dùng ẩn dụ nầy chứa đựng một lẽ thật để dạy dỗ chúng ta. Lẽ thật đó được thể hiện qua hành động của người Samari như một câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Jêsus. Triết lý sống của người Samari lân cận ấy là: “Cái gì của anh là của anh và cái gì của tôi thì cũng là của anh nếu bất cứ khi nào anh cần đến.”

Triết lý sống nầy sẽ làm cho bạn không giàu có được, nhưng đó là triết lý của Chúa Jêsus khi Ngài nói về Laxarơ đang nằm ngay trước cổng nhà chúng ta – tượng trưng cho thế giới của những nghèo khó tâm linh bởi vì họ đang bị mù, bị trói buộc, và đang đau khổ.

Khi bạn sống giữa bao người khác, xin hãy học cách lưu tâm đến những người đang chi phối đời bạn, có thể là những người đang bị mù lòa, bị trói buộc và đang đau khổ, vì bởi cớ họ mà Chúa Jêsus đã đến trần gian nầy. Hãy học cách tìm kiếm những người hiện nay đang như chiên đi lạc, như những đồng tiền bị đánh mất, như đứa con hoang đàng và như “Laxarơ” đang nằm tại cổng các nhà thờ. Sau đó, hãy nhận biết Chúa Cứu Thế là Đấng hiện đang sống trong bạn sẽ đến với họ qua bạn, khiến bạn trở thành giải pháp đáp ứng các nhu cầu cho họ trong đời nầy và cả trong đời sau nữa.

Người ta bảo Hội thánh ngày nay chẳng khác nào trận bóng đá tranh Cúp Thế giới. Khi theo dõi trận đấu trên truyền hình, bạn sẽ thấy hàng ngàn khán giả là những người đáng lý ra rất cần vận động, thì lại nghỉ ngơi. Trong khi đó họ ngồi để xem hai mươi hai con người kia là những người cần được nghỉ ngơi thì họ lại phải cật lực vận động! Khi xem xét sứ mệnh của Chúa Jêsus đối với thế giới ngày nay, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng xin bạn hãy kết ước với Đấng Christ hằng sống, phục sinh rằng bạn sẽ không làm khán giả chỉ để ngồi xem, nhưng sẽ làm cầu thủ gây ấn tượng trên sân trong việc môn đệ hóa cho Ngài trong mọi quốc gia, nhưng trước hết hãy bắt đầu với những người lân cận của bạn.

Chương 6: “MỘT CỨU CHÚA ĐANG TÌM KIẾM”

Câu Chuyện Chữa Lành Tuyệt Diệu (Luca 8:26-39)

Những ai đã từng làm việc trong các bệnh viện tâm thần, trước các bệnh nhân ắt sẽ rất cảm kích câu chuyện nầy. Bất kỳ ai có quan hệ với các thành viên trong bệnh viên tâm thần hoặc có những người thân yêu mắc phải căn bệnh khổ sở nầy, thì chắc rằng họ có thể đánh đổi mọi thứ để có thể nhìn thấy người thân yêu của họ trở lại bình thường. Các chuyên gia y tế là những người làm việc với những người bị bịnh tâm thần, cần nên biết thêm cách mà Chúa Jêsus đã thực hiện phép lạ chữa lành nầy.

Khi Chúa Jêsus và các môn đồ Ngài đi đến vùng Giêrasê, họ gặp phải một người bị quỷ ám. Vừa gặp, người đàn ông tội nghiệp nầy liền hỏi Chúa Jêsus rằng: “Lạy Đức Chúa Jêsus, tôi với Ngài có sự chi chăng?” (8:28). Nhiều người trên thế gian nầy hiện đang gặp rất nhiều vấn đề rắc rối nhưng họ không nghĩ rằng Chúa Jêsus và sự cứu rỗi của Ngài sẽ có thể đem lại sự giải quyết thích đáng cho họ. Họ bị chính căn bệnh khổ sở của mình chế ngự đến nỗi họ không thể nào nghĩ rằng Chúa Jêsus sẽ chữa lành cho họ, hoặc Ngài sẽ giải cứu họ thoát khỏi những nan đề của họ. Trong câu chuyện rất hay nầy, người bị quỷ ám đó đã khám phá ra rằng Chúa Jêsus và sự cứu rỗi của Ngài sẽ tác động đến hoàn cảnh sống thật tồi tệ của ông.

Còn có một sứ điệp quan trọng khác trong câu chuyện hấp dẫn nầy. Sau khi được chữa lành, ông ta bèn xuống thuyền muốn cùng đi với Chúa Jêsus. Chúng ta có thể dễ dàng đoán
được lý do tại sao người ấy muốn rời khỏi nơi mà ai nấy cũng đều biết ông đã trải qua sự đau khổ tột cùng trong nhiều năm qua. Chúng ta cũng có thể nhận biết được lý do tại sao người ấy lại muốn ở cùng Chúa Jêsus.

Thế nhưng, Chúa bảo người rằng: “Hãy về nhà ngươi, thuật lại mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ngươi!” (8:39). Có bản dịch khác nói rằng người ấy phải nói ra cho người ta biết những điều vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã làm cho người. Chính người là phép lạ của Chúa Jêsus, và giờ đây ông ta trở thành nhà truyền giáo cho Ngài, ông ta phải đi tỏ cho những người mà ông quen biết về câu chuyện đã xảy ra với ông.

Điều nầy đem lại cho chúng ta định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo. Nếu Đức Chúa Trời đã làm những điều vĩ đại cho bạn, thì sau đó bạn sẽ trở thành nhà truyền giáo. Giống như cây nến đặt trên giá đèn, hoặc như một thành phố toạ lạc trên một ngọn đồi, chúng sẽ không thể nào bị che khuất, chúng ta hãy đi ra làm chứng và nói cho người khác biết những
điều kỳ diệu mà Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Công việc truyền giáo được giao cho chúng ta hãy bắt đầu tại nơi khó khăn nhất, ấy là nơi mà người ta biết chúng ta rõ nhất, và
là nơi ưu tiên số một – quê nhà của chính chúng ta.

Phép lạ chữa lành nầy thực ra là một sự đuổi quỷ. Chúa Jêsus trực tiếp gọi tên và đuổi những quỷ dữ đang ở trong người nầy. Giả sử ngày hôm nay có Chúa Jêsus ở đây, liệu Ngài có chữa lành cho một người cũng bị quỷ ám tương tự như thế dưới hình thức nào đó hay không? Hay Ngài sẽ bảo tình trạng của người nầy là “bị bệnh tâm thần phân liệt với chứng hoang tưởng”, rồi tống khứ anh ta vào một nhà thương điên nào đó, để rồi bắt anh ta phải chịu sống đời sống của một người điên suốt phần đời còn lại của mình? Bạn nghĩ sao?

Người Pharisi Và Kẻ Thâu Thuế (Luca 18: 9-14)

Ở đây, chúng ta gặp hai người cầu nguyện với hai thái độ và nội dung khác nhau. Điều quan trọng đáng nói ở hai con người nầy ở chỗ kết thúc của câu chuyện, một người nhờ Chúa Jêsus được xưng công bình còn kẻ kia thì không – nghĩa là một người được cứu còn một người thì không. Hay nói cách khác, một người được nhận ân điển và người kia thì không.“Được xưng công bình” có nghĩa là, “Được xem như thể tôi chưa từng phạm tội”. Thêm vào đó, nó còn có nghĩa là Đức Chúa Trời kể chúng ta là công bình. Sách Rôma sẽ cho
chúng ta biết một cách toàn diện về việc Đức Chúa Trời đã thực hiện điều nầy ra sao. Trong ẩn dụ nầy, Chúa Jêsus nói cho chúng ta biết Tin lành là chân lý. Theo Ngài, để được xưng
công bình thì phải cầu nguyện như kẻ thâu thuế nọ: “Kính lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót lấy tôi, vì tôi là kẻ có tội!”

Chúng ta đọc thấy rằng người Pharisi đã cầu nguyện “với chính mình”. Lời cầu nguyện của ông ta được bắt đầu với bản thân mình, nó chỉ dành để nói về ông ta, và nó kết thúc cũng chỉ với chính ông ta mà thôi. Đó là lời cầu nguyện không bao giờ vượt qua được con người ông ta. “Cầu nguyện” theo nghĩa đen có nghĩa là “cầu xin”. Và theo định nghĩa nầy thì người Pharisi nọ đã chẳng cầu nguyện gì cả vì anh ta đâu có cầu xin Đức Chúa Trời điều gì.

Ẩn dụ nầy cho chúng ta biết những kẻ nào tự cho mình là công bình thì sẽ xem thường người khác. Làm sao để một người là tội nhân trở nên công bình được? Đức Chúa Trời có thể xưng một tội nhân là công bình bằng cách nào? Có phải là kết quả của sự tự nổ lực không? Có phải tôi là người công bình hoặc được xưng công bình bởi vì tôi tin vào những nổ lực của bản thân tôi để trở nên công bình không? Ẩn dụ nầy trả lời là “Không!” Đức Chúa Trời sẽ xưng tôi là công bình “như thể tôi chưa hề phạm tội” vậy. Khi tôi thừa nhận mình là tội nhân thì tôi vẫn không thể tự cứu chính mình được, mà tôi phải cầu xin Đức Chúa Trời thương xót.

Trong ẩn dụ nầy, Chúa Jêsus tuyên bố Tin lành là lẽ thật! Mọi người dù là đàn ông hay đàn bà, là nam hay nữ trên thế gian nầy thảy đều có thể được xưng công bình nếu họ bằng lòng cầu nguyện với thái độ khiêm nhường hạ mình, ăn năn thống hối xưng nhận tội lỗi mình ra, tương tự như là “Kính lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, vì tôi là kẻ có tội!” Thái độ của người Pharisi kia hoàn toàn trái ngược với thái độ của một người cầu nguyện khiêm nhường. Ăn năn hối cải và xưng nhận tội lỗi mình là những yếu tố sẽ đưa chúng ta vào trong vương quốc ân điển.

Có một học giả tin kính nọ cho rằng Xachê kẻ làm đầu bọn thâu thuế là người chúng ta sẽ gặp trong chương kế tiếp, cũng chính là người thâu thuế trong ẩn dụ nầy. Căn cứ vào việc Chúa Jêsus đã gọi đích danh ông ta, cho thấy Ngài và ông ta có quen biết nhau từ trước. Qua đó, chúng ta cũng thấy được rằng Chúa Jêsus đi đến thành Giêricô để “theo dõi” người cầu nguyện tên là Xachê là người ra sao – đặng giải thích cho ông ta biết thế nào là sự ăn năn thật và cần phải bày tỏ sự ăn năn đó ra sao trên đời sống mình. Điều nầy rõ ràng có liên quan đến việc ông phải phân phát tiền bạc của mình ra, là số tiền ông đã kiếm được một cách bất chính trước đó. Khả năng phỏng đoán cho sự việc nầy là rất lớn, dầu vậy, nó
vẫn đem lại cho chúng ta sự thích thú về một trong những câu chuyện tuyệt vời của Tân ước.

Chúa Jêsus Và Người Thâu Thuế (Luca 19: 1-10)

Khi đọc tới Luca 18 và 19, chúng ta khám phá ra thêm hai câu chuyện nữa nói về những người giàu có. Chúng ta cũng có thể thấy sự gặp gỡ của Chúa Jêsus với người trưởng phòng thuế vụ nầy giống như một vở kịch ba màn vậy. Màn thứ nhất là khung cảnh nơi Chúa Jêsus nhìn thấy và hỏi han Xachê. Màn kịch thứ hai xảy ra tại nhà Xachê, nơi Chúa Jêsus trải qua cả ngày trò chuyện và trao đổi với người đàn ông nầy là người mà dân thành Giêricô chẳng ai ưa.

Khi bức màn sân khấu được kéo lên tiếp tục diễn đến màn ba của vở kịch, Chúa Jêsus và Xachê đang ra khỏi nhà ông ta, sau đó Ngài cùng ông ở bên nhau trọn cả ngày hôm đó.Ông gọi Ngài là “Chúa” và tuyên bố sẽ đi phân phát một nửa số tiền bạc của mình cho người nghèo, ông cũng dùng nửa số tiền còn lại để bồi thường đền 400 % cho những ai trong thành Giêricô đã từng bị ông làm thiệt hại. (Giả sử ông không bồi hoàn cho ai hết, thì ông sẽ không phải tốn nửa gia tài còn lại của mình để giải quyết vấn đề ấy).

Màn hai là màn kịch quan trọng nhất của “vở kịch” nầy. Chúng ta không biết được những gì đã diễn ra ở màn kịch thứ hai, hoặc những gì đã xảy ra tại nhà Xachê. Thế họ đã nói về những gì suốt cả ngày ở đó vậy? Chắc họ đã thảo luận với nhau vấn đề ăn năn nghĩa là thế nào, để được tha thứ và bước theo Chúa Jêsus. Nội dung của cuộc thảo luận chắc hẳn có liên quan đến chuyện tiền bạc, bởi vì đó là thứ mà Xachê khi mở lời thì đã đề cập đến nó trước tiên. Lúc Chúa Jêsus nghe những lời ấy được nói ra từ một kẻ tội lỗi xấu xa nhất của thành Giêricô, thì Ngài liền tuyên bố người nầy là con cháu Ápraham và rằng sự cứu rỗi đã vào nhà người ngay ngày hôm đó.

Chi tiết tôi lấy làm tâm đắc nhất trong câu chuyện nầy, ấy là khi Chúa Jêsus đi đến thành Giêricô thì Ngài đã dành trọn một ngày ở đó với một kẻ hèn hạ chuyên đi lừa gạt nầy, và thiên hạ đang bàn tán với nhau về chuyện ấy. Tôi rất thích thú khi đặt cho một họa sĩ nọ vẽ bức tranh về Chúa Jêsus mà theo nhà sử học Do Thái Josephus thì đó là hình ảnh một Đấng vĩ đại đang bước vào nhà dang rộng vòng tay ôm choàng lấy Xachê một người nhỏ thó thấp bé, trong khi tất cả những kẻ tự cho mình là công bình đứng quanh đó bàn tán xôn xao vì cớ gì mà Chúa Jêsus chỉ có một ngày duy nhất ở thành Giêricô, nhưng lại dành trọn cho kẻ làm đầu bọn thâu thuế nầy.

Câu chuyện được kết thúc với một lời đẹp đẽ khắc trên tấm bản nhỏ bằng đồng thau đính vào bên dưới cạnh khung của bức tranh: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất!”Đây là một trong những lời tuyên bố rất rõ ràng của Phúc âm thứ ba nầy, là lời đem lại cho chúng ta một sứ mạng hết sức ngắn gọn, đầy đủ và súc tích về sự quan trọng nhất đối với đời người sống trên đất nầy (19:10).

Chúng ta cũng thấy được chiến lược của Chúa Jêsus trong lần gặp gỡ nầy. Ngài chỉ đi ngang qua thành Giêricô, và mục đích của Ngài rõ ràng là để đến với một người có thể gây nên một ảnh hưởng mạnh mẽ tới dân chúng thành Giêricô sau khi Ngài đã rời xa khỏi đó.Hãy tưởng tượng sự ảnh hưởng nầy sẽ lan rộng ra khắp cả thành Giêricô, khi Xachê bắt đầu mời những người mà ông đã từng thu thuế quá mức ở đó lại, cộng thêm với uy lực mà những người thu thuế thường có. Thử hình dung ra khung cảnh mọi người lấy làm ngạc nhiên, vui mừng xen lẫn sợ hãi khi nghĩ rằng hầu bao của họ lại sắp sửa phải lưng thêm, thế rồi họ mới vỡ lẽ ra Xachê mời họ đến là để trả lại cho họ gấp bốn lần những gì mà ông đã từng lấy của họ trước đó, chỉ vì cớ ông đã gặp được Chúa Jêsus! Theo tôi thì đây là sự kiện vĩ đại nhất đã xảy ra tại thành Giêricô kể từ khi những bức tường của thành phố nầy bị sụp đổ trong thời Giôsuê.

Gặp Gỡ Một Người Giàu Khác (Luca 18:18-27)

Có một câu chuyện khác kể về một người giàu có nọ trong chương trước được nối tiếp với câu chuyện Chúa Jêsus và Xachê vừa rồi. Khi đem so sánh và đặc biệt là khi bạn đem đối chiếu hai người giàu nầy với nhau, thì trước hết bạn sẽ thấy họ có những điểm chung như sau:Cả hai đều giàu có. Cả hai đều là người Do Thái. Cả hai đều khao khát gặp Chúa Jêsus. Xachê trèo lên một cái cây, người giàu kia là một viên quan trẻ tuổi đã chạy đến với Chúa Jêsus và quỳ xuống trước Ngài. Cả hai đều đến với Chúa một cách công khai. Rõ ràng cả hai đều quan tâm đến việc muốn biết phải làm thể nào để được cứu, và cần làm sao để có sự sống đời đời. Hiển nhiên là Chúa Jêsus rất đỗi yêu thương cả hai người nầy. Chúa bảo họ hãy ăn năn tội lỗi mình và phải bày tỏ sự ăn năn đó ra bằng cách phân phát tiền bạc của mình ra cho người khác.

Nhưng khi đem đối chiếu với nhau, bạn sẽ thấy họ có những điều khác biệt đến kinh ngạc: người giàu trẻ tuổi là một người đạo đức và sùng đạo, trong khi Xachê lại là người ngược lại. Người giàu trẻ tuổi luôn được dân chúng ngưỡng mộ và kính trọng, trong khi đó chúng ta biết rõ rằng đối với Xachê thì không hề được như vậy.

Sự khác biệt quan trọng nhất giữa hai người nầy là Xachê đã hết lòng ăn năn hối cải tội lỗi mình và đi phân phát tiền bạc của mình ra cho người khác, trong khi người giàu đạo đức và sùng đạo kia thì không ăn năn chút nào. Cho dù anh ta sống thanh liêm chính trực, có đạo đức và ngoan đạo đến cỡ nào chăng nữa thì anh ta vẫn không được cứu, còn Xachê lại được cứu đấy! Trừ phi về sau người giàu trẻ tuổi nầy có chịu ăn năn hay không, chúng ta có thể giả định rằng anh ta đã chết đi với đời sống của con người đạo đức nhưng đó cũng chỉ là một kẻ hư mất mà thôi. Điều đó có nghĩa là ngay cả Xachê, một người xấu xa chẳng ra gì, từng sống một đời sống vô đạo trước khi gặp Chúa Jêsus, thì hiện nay, ông lại đang ở trên thiên đàng, còn viên quan trẻ tuổi giàu có kia thì lại đang ở trong địa ngục!

Chúng ta không được hiểu sai nội dung câu chuyện nầy. Chúa Jêsus không bảo chúng ta sẽ được cứu nhờ vào những việc chúng ta làm hoặc bởi những gì chúng ta thôi không làm nữa. Ngài dạy rằng, nếu chúng ta ăn năn và từ bỏ tội lỗi mình thì chúng ta mới được cứu rỗi thực sự. Chúng ta đã nhìn thấy hai hình ảnh tương phản được minh họa sống động của hai con người trên về cái cách họ đã đáp lại Chúa Jêsus ra sao.

Câu chuyện của Chúa Jêsus và Xachê thực sự đã được bắt đầu với ẩn dụ về người Pharisi và kẻ thâu thuế. Khi chúng ta tiếp tục đọc tiếp ẩn dụ nầy, chúng ta sẽ khám phá ra có một câu Kinh thánh phát họa rõ nét hình ảnh Chúa Jêsus quả thật là Đấng Cứu Thế mà chúng ta đang tìm kiếm. Chúng ta sẽ thấy chân dung Chúa Jêsus và bản Tuyên ngôn của Ngài lần cuối cùng khi Luca đưa ra cho chúng ta lời diễn tả của ông về Đại Mạng lịnh ở phần kết của sách Phúc âm nầy (Luca 24: 46-49).

Chương Kết: “SUY NGHĨ CỦA CƠ ĐỐC NHÂN”

Chúa Jêsus đưa ra nhiều sự dạy dỗ trong “Ẩn dụ về người gieo giống” là ẩn dụ chỉ cho chúng ta biết cách để tiếp cận và ứng dụng sự dạy dỗ của Ngài. Luca có ghi lại ba ẩn dụ mà Chúa Jêsus đã dùng cho mục đích ấy (Luca 5:36-39; 7:31-35). Hai ẩn dụ đầu nói về một miếng vải mới được vá vào chiếc áo cũ, và rượu mới được đổ vào bầu da cũ.
Người ta nghe Chúa Jêsus dạy về mấy ẩn dụ nầy thì đều hiểu cả vì chúng rất quen thuộc hàng ngày, và đó là những minh họa có ý nghĩa rất sâu sắc. Người phụ nữ nào biết may vá áo quần thì cũng đều biết rằng bạn chớ bao giờ đi vá một miếng vải mới vào áo quần cũ. Vì miếng vải mới đó quá chắc nên nó sẽ kéo chằng tấm áo cũ ra và càng làm cho rách to thêm chỗ đã bị rách trước đó.

Nhiều người nghe Chúa Jêsus dạy hôm ấy có lẽ họ cũng đã từng mắc sai lầm khi đổ rượu mới, là rượu chưa lên men vào trong bình rượu da cũ dễ bị vỡ. Khi rượu mới lên men, thì bình rượu da cũ sẽ bị căng lên và không thể chịu được áp lực ở bên trong. Cho đến một hôm, người ta bỗng nghe một tiếng nổ lớn và thấy rượu đổ xòa ra lai láng xuống tường là chỗ họ đã treo bình rượu da cũ đó. Họ chợt nhận ra rằng tại sự sai lầm của họ nên đã xảy ra tiếng nổ ấy – khiến bình rượu da bị bể tan tành còn rượu thì bị chảy sạch.

Ứng dụng thực tiễn ở đây là sự dạy dỗ của Chúa Jêsus sẽ là áp suất đặt trong chúng ta khi chúng ta tiếp thu nó. Những ai trở thành con người mới là kết quả của sự tái sinh thì hiển nhiên đó là “những bình rượu da mới” để cho “rượu mới” là sự dạy dỗ của Ngài được đổ vào (II Côr 5: 17). Chỉ có những con người mới nầy mới có thể hiểu được, chấp nhận, và ứng dụng sự dạy dỗ của Chúa, như ứng dụng ẩn dụ nầy chẳng hạn.

Nếu chúng ta không mềm mại co giãn thì áp suất là sự dạy dỗ của Chúa Jêsus đặt trên những ý muốn, những suy nghĩ của chúng ta sẽ thực sự bị nổ tung! Đây là lý do tại sao Chúa Jêsus bảo chúng ta không được trở nên là những người bị “chứng tâm thần phân liệt thuộc linh” bởi việc chúng ta cố gắng làm tôi hai chủ (Mathiơ 6:24). Nếu chúng ta không tiếp cận và đáp ứng sự dạy dỗ của Chúa Jêsus bằng cách đầu phục và vâng theo lời dạy dỗ của Ngài, thì chúng ta chẳng khác nào những kẻ mà sứ đồ Giăng đã gọi là sự tuyên xưng “hâm hẩm” của chúng ta bởi đức tin trong Đấng Christ sẽ làm cho chúng ta trở nên bị chán ngấy, và khiến cho Đấng Christ phục sinh sẽ mửa chúng ta ra mỗi khi Ngài nghĩ đến chúng ta (Khải 3:15-16).

Chúa Jêsus dùng ẩn dụ thứ ba để lên án việc các vị chức sắc tôn giáo đã chối bỏ sự dạy dỗ của Ngài và sự rao giảng của Giăng Báptít (7: 31-35). Bọn trẻ con chơi đùa ở nơi họp chợ những trò chơi giống như “đám cưới” và “đám tang”, bởi vì chúng có nhìn thấy những cảnh ấy trước đó. Chúng muốn những người buôn bán bận rộn kia dừng lại để cùng chơi các trò chơi đó với chúng.

Qua mấy ẩn dụ nầy, Chúa Jêsus muốn nói rằng những thầy thông giáo và bọn người Pharisi kia chẳng khác nào đám trẻ con nọ rủ Ngài chơi trò “đám tang” với chúng vì Ngài đã đưa ra hình ảnh thế nào là một người có đời sống phước hạnh. Họ đề nghị Giăng Báptít chơi trò “tiệc cưới” vì người đã quá nghiêm túc, sống đời sống thuộc linh quá nguyên tắc trong hoang mạc, và đã đi rao giảng về sự ăn năn.

Vấn đề Chúa Jêsus bàn đến ở đây là Ngài và Giăng Báptít đã đến nhưng không phải để chơi những trò trẻ con của họ. Ngài và Giăng cũng không phải đến để làm theo những sự chỉ giáo của họ, nhưng đến để làm một cuộc cách mạng về sự dạy dỗ tôn giáo cần phải được củng cố.

Sự dạy dỗ sống động đầy năng lực của Chúa Jêsus giờ đây sẽ khiến cho bạn phải bộc lộ mình ra. Bạn sẽ đáp ứng như thế nào đối với những gì mà bạn đã học được từ cái nhìn sơ lược về Phúc âm Luca nầy? Bạn sẽ làm gì ngay bây giờ sau khi bạn đã nhận biết được nội dung những mục đích sứ mạng của Đấng Christ phục sinh, là Đấng hiện đang sống trong bạn? Sự dạy dỗ của Ngài luôn hướng đến việc thay đổi suy nghĩ, đời sống và giá trị con người của bạn. Chúa Jêsus cảnh cáo bạn và tôi rằng nếu chúng ta không đáp lại lời dạy của Ngài thì “cái nhìn nước đôi thuộc linh” của chúng ta sẽ khiến cho tâm trí của chúng ta dễ bị nổ tung. Phúc âm Giăng là sách chứa đựng ký thuật đầy đủ nhất về sự chết và sự sống lại của Chúa Jêsus. Vì tôi có sáu tập sách nhỏ cung cấp nội dung những lời chú giải cho 130 chương trình trên đài phát thanh về Phúc âm Giăng nầy, cho nên tôi sẽ dành những lời bình giảng của tôi về cuộc đời sống động của Chúa Jêsus và nhiệm mạng của Ngài cho nội dung các tập sách nhỏ đó. Sự thấu hiểu những điều ẩn dấu bên trong có ý nghĩa đầy đủ nhất về sự chết của Ngài mà chúng ta lĩnh hội được từ Luca chính là chỗ Ngài bảo với các sứ đồ rằng lễ Vượt Qua sẽ được trọn khi Ngài đã chịu chết trên thập tự giá (22:16). Trừ Giăng ra, các tác giả Phúc âm chỉ đơn giản nói vắn tắt như vầy: “Họ đóng đinh Ngài” khi thuật lại sự chết của Chúa Jêsus trên cây thập hình.

Nếu bạn chưa nhận biết Đấng Christ là Chúa Cứu thế của bạn một cách cá nhân, thì với cương vị là một nhà truyền giáo Phúc âm của Đấng Christ, tôi nài xin bạn hãy nhận biết rằng Chúa Jêsus đã đến để đem lại ánh sáng cho bạn vì bạn đang ở trong sự mù lòa thuộc linh,và để giải phóng bạn thoát khỏi mọi thói đam mê tội lỗi dưới nhiều hình thức. Ngài muốn chữa lành vết thương lòng cho bạn và đời sống đau khổ của bạn, và như vậy Ngài đã trở thành Chúa Cứu thế của chính bạn. Sau đó Ngài muốn đem mục đích vĩ đại vào cuộc đời bạn, bằng cách khiến bạn trở thành người cùng dự phần với Ngài thực hiện sứ mạng trọng đại của Ngài, là tìm kiếm và cứu vớt những ai lạc mất. Bây giờ hãy tin cậy nơi Ngài là Chúa Cứu thế của bạn. Hãy tôn Ngài làm Cứu Chúa của đời sống bạn, và sau đó hãy sống đời sống tương giao với Đấng Christ hằng sống, phục sinh, hoàn tất bản Tuyên ngôn vĩ đại nhất trên đất nầy.

PHÚC ÂM GIĂNG

Chương 7: “NGÔN NGỮ BIỂU TƯỢNG CỦA GIĂNG”

Trong sáu tập sách nhỏ khác, tôi có cung cấp những lời chú giải cho quý thính giả của chúng tôi là những người đã nghe 130 chương trình trên đài phát thanh dạy về Phúc âm Giăng theo từng câu. Trong tập sách nhỏ nầy, tôi muốn cung cấp một số chú giải cho những ai đã nghe được các buổi phát thanh nói về sự khảo sát sơ lược sách Phúc âm thứ tư, và đó cũng chính là một phần của sự nghiên cứu Tân ước của chúng ta.

Bây giờ chúng ta đến một trong những sách mà tôi yêu thích nhất trong bốn sách Phúc âm. Phúc âm Giăng là sách rất được hàng triệu người ưa chuộng bởi vì Đức Chúa Trời đã dùng Phúc âm nầy để dẫn họ đến tin nhận Chúa Cứu Thế. Tôi yêu thích thể loại văn chương được Chúa linh ứng cho Giăng để ông viết ra sách Phúc âm nầy. Đây cũng là sách Phúc âm mà tôi mến chuộng bởi vì những mục đích mà Giăng đã viết trong sách, vì những lý luận có hệ thống lôgic mà ông đã trình bày xuyên suốt qua 21 chương của mình, và vì nội dung sách đã nói cho tôi biết tất cả về Chúa Jêsus. Đây là sách Phúc âm tôi ưa thích vì Giăng không những chỉ cho tôi biết làm thế nào để được cứu mà còn nhờ việc đọc sách Phúc âm nầy của ông khiến tôi nhận biết được Chúa Cứu Thế chính là Đấng đã cứu chuộc tôi.

Sứ đồ Giăng người viết sách Khải huyền cũng chính là tác giả của sách Phúc âm nầy. Nếu bạn quen thuộc với sách cuối cùng của Kinh thánh, thì bạn cũng sẽ có khả năng thấu hiểu sâu sắc những điều ẩn dấu dưới hình thức và thể loại văn chương của Giăng. Khi Giăng viết sách Khải huyền, ông đã dùng một từ để giúp chúng ta hiểu được hình thức và thể loại văn chương của ông. Bắt đầu cho sách cuối cùng của Tân ước, ông viết: “Sự mặc thị của Đức Chúa Jêsus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên sứ đến tỏ những điều đó cho Giăng, tôi tớ Ngài”.Thật là thú vị vì từ “tỏ” rất tuyệt vời Giăng đã dùng để viết sách Khải huyền và sách Phúc âm Giăng đang nói với chúng ta rằng Giăng đã viết bằng một loại “ngôn ngữ biểu tượng” tuyệt diệu.

Sứ đồ Phaolô đã viết rằng Tin lành là sự rồ dại đối với người Hy lạp bởi họ cứ mải mê đi tìm kiếm những điều tri thức cao siêu, còn người Do Thái thì cứ khăng khăng “đòi hỏi một dấu lạ”. Ở đây Phaolô muốn nói rằng người Do Thái thường hay yêu cầu Chúa cho họ xem các dấu lạ để chứng minh Ngài là Đấng đang ở với họ và dẫn dắt họ (Mathiơ 12:38-42).Phaolô còn muốn nói rằng người Do Thái đôi khi cũng đã suy nghĩ và truyền đạt thông tin với nhau bằng một thứ “ngôn ngữ biểu tượng” tuyệt vời nào đó.

Toàn bộ sách Khải huyền được Đức Chúa Trời hà hơi trở nên rất sâu sắc và đã được viết ra bằng một thứ ngôn ngữ biểu tượng của tiếng Hêbơrơ. Mặc dầu thể loại ngôn ngữ biểu tượng nầy nhiều lúc không được rõ ràng rành mạch lắm, nhưng Giăng đã vẫn dùng nó viết nên sách Phúc âm nầy.

Những Chìa Khoá Để Khám Phá Phúc âm Giăng

Khi Giăng đóng góp hai sách được Chúa hà hơi nầy vào bộ Kinh thánh Tân ước (gồm sách Phúc âm Giăng và sách Khải huyền), thì gần như thể ông đang viết các sứ điệp cho dân sự Đức Chúa Trời bằng một thứ mật mã đã được Chúa hà hơi. Khi họ đọc đến những sứ điệp nầy, họ cần có “các chìa khoá để giải mã”. Sau đây có “một số chìa khoá” sẽ giúp bạn “giải mã” cho thứ ngôn ngữ biểu tượng sâu sắc mà Giăng đã dùng trong sách Phúc âm nầy.

Chìa Khoá Số Một

Chìa khoá đầu tiên giúp chúng ta hiểu được sách Phúc âm nầy là hãy nhận biết rằng 90 % nội dung của sách nầy không hề có trong ba sách Phúc âm đầu. Khi đọc sách Phúc âm nầy, chúng ta sẽ thấy Giăng rất khát khao chia sẻ với chúng ta về đời sống của Đấng Christ là điều chúng ta không thấy có trong các sách Mathiơ, Mác và Luca. Tuy nhiên, chúng ta sẽ đọc thấy phần tiểu sử của Chúa Jêsus trình bày ở sách nầy có đặt điểm rất khác so với ở ba sách Phúc âm đầu mà chúng ta đã đọc.

Chìa Khoá Số Hai

Chìa khoá kế tiếp đây sẽ giúp chúng ta giải mã sứ điệp của sách Phúc âm kỳ diệu nầy là hãy nhận biết rằng sách Phúc âm Giăng – là sách duy nhất trong Kinh thánh đặc biệt nói cho những người chưa tin để đưa họ đến với sự sống đời đời.

Sứ đồ Phaolô viết rằng mục đích của cả Kinh thánh là: “…, cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (IITimôthê 3:16-17). Kinh thánh không chỉ dành cho những kẻ vô tín nói chung mà dĩ nhiên là còn dành cho mọi tín hữu nữa.

Trong Kinh thánh, Đức Chúa Trời có một sứ điệp duy nhất thực sự dành cho người vô tín là hãy ăn năn và tin nhận Phúc âm. Tuy nhiên, khi những người vô tín ăn năn và tin nhận Phúc âm rồi thì Chúa sẽ dành cho họ cả 66 sách chứa đựng lẽ thật, bởi vì Ngài muốn những kẻ tin được sắm sẵn để làm mọi việc lành mà Ngài đã hoạch định để hoàn tất qua đời sống họ. Đức Chúa Trời mong muốn tất cả con cái Ngài có đời sống thuộc linh tăng trưởng và được trọn vẹn thành dân sự mà Ngài đã tạo dựng, và nay được Ngài tái tạo để trở nên con cái Ngài (Êphêsô 2:10; 4:12).

Phúc âm Giăng là một sứ điệp của Đức Chúa Trời dành cho người chưa tin Chúa, là sách cần thiết trước tiên cho tất cả những ai mà Ngài muốn tiếp tục phán dạy họ qua 65 sách còn lại của Kinh thánh. Mặc dầu trong bốn sách Phúc âm được sắm sẵn cho mọi kẻ tin là những sách đều có chứa đựng rất nhiều lẽ thật uyên thâm, nhưng chỉ có Phúc âm Giăng là sách đặc biệt dành cho kẻ chưa tin với mục đích đưa họ đến tin nhận Chúa Cứu Thế Jêsus.

Giăng nói cho chúng ta biết lý do tại sao ông đã viết sách Phúc âm sâu sắc nầy: “Đức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (Giăng 20: 30-31).

Có một bản dịch hiện đại chú thích ở cuối trang rằng: “dấu lạ là một chứng cứ bằng phép lạ bày tỏ quyền năng cứu chuộc trong ân điển của Đức Chúa Trời”. Dĩ nhiên, dấu lạ là một phép lạ chứng minh Chúa Jêsus chính là Đấng Mêsi, là Christ, là Con Đức Chúa Trời, và cũng chính là Chúa Cứu Thế của nhân loại.Trong câu cuối cùng của sách Phúc âm nầy, Giăng viết, nếu như đem chép lại hết tất cả các dấu kỳ phép lạ mà Chúa Jêsus đã làm thì cả thế gian nầy cũng không thể nào chứa hết những sách người ta chép đó. Hãy cố khám phá ở nhiều sách viết về cuộc đời, công việc và những ảnh hưởng của Chúa Cứu Thế Jêsus, bạn sẽ cảm thấy yêu thích sự quan sát thật gần
gũi của Giăng đối với Chúa Jêsus.

Giăng muốn chúng ta xem xét thật kỹ ký thuật của ông về những dấu lạ mà Chúa Jêsus đã làm để chứng minh các lời Ngài đã tuyên bố về mình. Ông có ý muốn viết rằng: “Hãy quan tâm đến tất cả những dấu kỳ phép lạ Chúa Jêsus đã làm – với một tinh thần rộng mở là những việc tôi đã ghi lại trong sách nầy. Điều đó sẽ khiến cho bạn tin rằng Đức Chúa Jêsus người Naxarét chính là Đấng Mêsi, Con Đức Chúa Trời. Tôi muốn bạn tin điều nầy bởi vì khi bạn tin nhận các lẽ thật về Chúa Jêsus như vậy, bạn sẽ được tái sinh và nhận được sự sống đời đời.” (20:30-31; 1:12-13)

Có những người muốn bắt đầu đọc Kinh thánh, họ thường hỏi mục sư nên đọc sách nào trước, thường thì ông ta sẽ hỏi lại người đó: “Bạn là tín đồ phải không?” Vì Giăng viết sách nầy cho những người chưa tin Chúa, cho nên khi họ trả lời: “Không ạ! Nhưng vì tôi thích đọc Kinh thánh!”, nghe vậy, mục sư sẽ bảo: “Thế thì bạn nên bắt đầu đọc sách Phúc âm Giăng đi!” Các vị mục sư thường xuyên khuyên rằng bởi vì Giăng đã viết sách Phúc âm nầy với mục đích đầu tiên là để cho những kẻ vô tín được trở nên con cái Chúa và kinh nghiệm được sự sống đời đời.

Chìa Khoá Số Ba

Một chìa khoá nữa giúp chúng ta hiểu được Phúc âm Giăng là hãy nhận biết rằng Phúc âm nầy trình bày luận chứng một cách có hệ thống về Chúa Jêsus. Phúc âm Mathiơ và Phúc âm Luca trình bày về những chiến lược truyền giáo của Chúa Jêsus. Tuy nhiên, những luận chứng được Giăng trình bày có một rất chặt chẽ và có hệ thống trong sách Phúc âm của ông được tiếp tục thể hiện một cách mạch lạc qua từng chương cho đến hết cả 21 chương của sách Phúc âm Giăng.

Mục đích của bốn sách Phúc âm đều nói cho chúng ta biết việc Chúa Jêsus đã đến. Trong khi Mathiơ trình bày Chúa Jêsus là vua của nước trời, Mác mô tả Ngài là Đầy tớ và cũng là Con Người, Luca nhấn mạnh đến nhân tính của Ngài, thì Giăng chủ yếu muốn nói cho chúng ta rằng Ngài là Đức Chúa Trời.

Luận chứng có hệ thống của Giăng trình bày rằng Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế, là Đấng Mêsi theo như lời đã hứa, và cũng là Con của Đức Chúa Trời. Lần theo dấu vết lẽ thật nầy xuyên suốt Phúc âm Giăng bắt đầu kể từ chương một cho đến hết sách, bạn sẽ thấy từ chương nầy cho đến chương khác, Giăng luôn liên tục nhấn mạnh luận cứ nầy: Chúa Jêsus người Naxarét, con người của lịch sử, chính là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời và là Chúa Cứu Thế của cả nhân loại.

Đức Chúa Jêsus Christ không hề có tên kép như một người nào đó ví dụ như “John Brown”chẳng hạn. Ngài tên là “Jêsus”. Còn “Đấng Christ” là tước hiệu của Ngài. Khi chúng ta
gọi Ngài là Chúa Cứu Thế Jêsus, thì có nghĩa rằng Jêsus người Naxarét theo ghi nhận của lịch sử, là Đấng Christ. Từ “Đấng Christ” trong tiếng Hy lạp được gọi là “Đấng Mêsi” theo tiếng Hêbơrơ. Khi Giăng nói với chúng ta rằng Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức ông muốn nói Chúa Jêsus mà chúng ta gặp ở trong Tân ước chính là Đấng Mêsi đã được dự ngôn và đã hứa ở Cựu ước.

Trong sách Công vụ các sứ đồ, chúng ta đọc thấy những chuyến hành trình truyền giáo của Sứ đồ Phaolô, ông vốn là một giáo sĩ người Do thái (Rabi), ông đi vào các Nhà hội của thành phố nầy đến thành phố khác và dùng Kinh thánh tranh luận với các Rabi Do Thái mà ông gặp ở đó, rằng Chúa Jêsus chính là Đấng Christ (Công vụ 17:2-3). Trong các thư tín của sứ đồ Phaolô, ông nói với chúng ta rằng nền tảng giáo lý của mối thông công trong Hội thánh thời Tân ước là “Đức Chúa Jêsus là Chúa.” (ICôrinhtô 12:3)

Trong bức thư đầu của ba thư tín được viết bởi Giăng mà bạn sẽ tìm thấy nó nằm ở gần cuối Tân ước, Sứ đồ Giăng viết rằng nền tảng giáo lý của sự thông công trong Hội thánh là “Chúa Jêsus là Đấng Christ” (IGiăng 2:22; 5:1). Luận chứng nầy được Giăng nhấn mạnh bằng hai câu ngắn gọn trong thư tín đầu của ông cũng chính là điều ông đã trình bày một cách có hệ thống trong sách Phúc âm nầy.

Chìa Khoá Số Bốn

Dựa trên ba chìa khoá đầu để mở ra sách Phúc âm Giăng, thì theo tôi chìa khoá kế tiếp nầy là chúng ta hãy đọc Phúc âm nầy. Chúng ta nên đọc hết cả 21 chương, sau đó tìm ra những câu giải đáp cho ba câu hỏi sau đây: Chúa Jêsus là ai? Đức tin là gì? Sự sống là gì? Giăng viết Phúc âm nầy nhằm đem lại cho chúng ta một ký thuật về các dấu lạ, hoặc những chứng cứ lạ lùng mà Chúa Jêsus đã làm do ông đã thu thập được, bởi vì ông muốn giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi thứ nhất rằng: Chúa Jêsus là Đấng Christ, là Đấng Mêsi, và cũng là Con Đức Chúa Trời. Hết chương nầy đến chương khác, Giăng sẽ chỉ cho chúng ta trong nhiều cách rằng, Chúa Jêsus là Đấng Christ, là Đấng Mêsi, là Con Độc Sinh của Đức Chúa Trời. Giăng luôn nhấn mạnh lẽ thật căn bản nầy qua nhiều cách khác nhau trong từng chương của cả 21 chương.

Ở mỗi chương, chúng ta hãy tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Đức tin là gì? Giăng đã viết, đại ý thế nầy “Tôi sẽ nói cho bạn nghe những điều về Chúa Jêsus. Nếu bạn tin các lẽ thật về Ngài, thì bạn sẽ được tái sinh và nhận lãnh sự sống đời đời” (20:30-31; 1:12-13). Trong mỗi chương, Giăng không chỉ thách thức chúng ta hãy tin vào luận chứng mà ông nói về Chúa Jêsus một cách có hệ thống. Ông còn bày tỏ cho chúng ta biết đức tin là gì khi ông khích lệ chúng ta nên tin những gì ông nói về Chúa Jêsus.

Vậy, đức tin là gì? Đức tin là một khái niệm rất khó định nghĩa và khó nói cách rõ ràng. Tuy nhiên, trong hết chương nầy đến chương khác, và qua nhiều hình thức rất lý thú, Giăng sẽ minh họa cho chúng ta được ý nghĩa của việc tin nhận Chúa Jêsus là Đấng Christ.

Trong mỗi chương, Giăng sẽ trình bày cho chúng ta biết thế nào là sự sống đời đời. Sự sống đời đời không phải chỉ là sự sống vĩnh hằng mà thôi. Ông cũng dùng từ ngữ đó, nhưng sự sống đời đời mà ông đang nói đến ở đây không chỉ là thời lượng của sự sống, mà còn là chất lượng của sự sống. Giăng viết rằng Chúa Jêsus đã nói: “Ta đã đến hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10). Vậy, sự sống dư dật mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn có chất lượng như thế nào mà loài người hằng luôn trông mong để tận hưởng?

Giăng đã dùng từ ngữ “Sự sống đời đời” để nói đến phẩm chất của sự sống ấy. Sự sống đời đời là sự sống vừa có chất, lẫn lượng. Sự sống đời đời là sự sống phong phú bắt đầu từ hiện tại và tiếp diễn cho đến cõi vĩnh cửu.

Giăng cho biết chúng ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự sống đời đời có chất lượng nầy khi sinh ra về phương diện thuộc thể. Nhưng, nếu chúng ta kinh nghiệm được sự tái sinh,là điều mà Giăng đã gọi “được sinh từ trên”, thì chúng ta sẽ sống một đời sống có chất lượng ở mức độ cao hơn. Chúng ta sẽ có một “đời sống phong phú”, hay là “sự sống đời đời”.

Chương nầy nối tiếp chương khác của sách Phúc âm Giăng, tác giả không chỉ nói với chúng ta mà ông còn bày tỏ cho chúng ta biết được ý nghĩa của điều mà ông nói đến sự sống đời đời. Dĩ nhiên, khi đọc từng chương của Phúc âm nầy, thế nào chúng ta cũng sẽ thắc mắc: “Thưa sứ đồ Giăng! Sự sống đời đời được nói đến trong chương nầy là gì vậy?” Khi bạn đọc tới mỗi chương, hãy suy gẫm với tinh thần cầu nguyện như vầy: “Trong chương nầy Giăng nói Chúa Jêsus là ai? Đức tin là gì? Sự sống là gì?” Hãy quan sát xem Giăng sẽ trả lời ra sao cho ba câu hỏi trên ở mỗi chương trong Phúc âm nầy.

Chìa Khoá Số Năm

Một chìa khoá khác nữa giúp chúng ta hiểu được Phúc âm Giăng, là sách mà ông đã dùng ngôn ngữ biểu tượng tuyệt vời để viết. Sách Phúc âm Giăng được viết cho hai cấp độ.Một đứa trẻ có thể hiểu được ở cấp một. Bạn có thể dùng Phúc âm nầy dạy cho con cái bạn đọc, bởi vì Giăng thường dùng nhiều từ đơn giản hơn nhiều so với các tác giả của các sách
Phúc âm khác. Một đứa trẻ có thể đọc hiểu được Phúc âm Giăng ở cấp một. Tất nhiên nội dung của Phúc âm nầy luôn có ý nghĩa ở cấp độ sâu hơn. Ngay cả các thánh đồ tin kính và trưởng thành nhất cũng không thể hiểu hết được ý nghĩa sâu nhiệm của Phúc âm nầy ở cấp hai.

Phúc âm Giăng là sách tôi rất ưa thích vì lý do ở chỗ cấp độ thứ hai của nó, là cấp độ mà Giăng đã viết bằng thứ ngôn ngữ biểu tượng thuộc linh, lối nói hình bóng, được thần cảm và vô cùng hấp dẫn. Có người cho rằng chúng ta ít ra cũng cần phải có bằng cấp thần học và triết học thì mới có thể hiểu được Phúc âm nầy ở mức độ sâu hơn. Tôi không đồng ý như vậy. Theo tôi thì chúng ta cần Đức Thánh Linh để bày tỏ cho chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn khi đọc Phúc âm Giăng. Hễ khi đọc Phúc âm nầy, bạn hãy cầu xin Đức Thánh Linh chỉ cho bạn thấy ý nghĩa của nó ở mức độ sâu sắc hơn trong từng chương sách.

Chìa Khoá Số Sáu

Có một cái nhìn khác mà tôi muốn chia sẻ với bạn khi chúng ta cùng đọc Phúc âm Giăng. Trong chương 12, có một số người Hylạp đến tìm sứ đồ Philíp với lời đề nghị: “Thưa ông! Chúng tôi muốn ra mắt Chúa Jêsus!” Hãy đề nghị như mấy người Hy lạp đó trong lời thầm nguyện riêng tư mỗi khi bạn đọc Phúc âm Giăng. Chìa khoá cuối cùng để giúp giải mã ngôn ngữ biểu tượng nầy của Giăng là tôi thách thức bạn đọc kỹ hết Phúc âm nầy trong sự thầm nguyện: “Kính lạy Cha! Con muốn gặp Chúa Jêsus!”

Nếu thực hiện như vậy, bạn sẽ khám phá ra Phúc âm Giăng giống như một “Toà nhà trưng bày tranh nghệ thuật thuộc linh” vậy. Mỗi chương sách giống như là một “phòng” của ngôi nhà đó. Sau khi treo tranh lên các “bức tường” (câu) của từng căn phòng (chương), bạn sẽ thấy những “bức tranh” của Chúa Jêsus đẹp đẽ vô cùng. Vị sứ đồ của tình yêu đang trưng bày những “bức tranh” thần cảm của Chúa Jêsus trong tất cả các chương của Phúc âm nầy.
Tôi tìm thấy ở chương đầu có 15 bức tranh của Chúa Jêsus và ở chương 4 có 14 bức. Thử xem bạn sẽ tìm được bao nhiêu bức tranh như thế khi đọc thật kỹ hết sách Phúc âm nầy.Sau đó, ở mỗi chương của Phúc âm Giăng, bạn hãy chọn ra một bức tranh của Chúa Jêsus. Hãy hình dung ra những cái nhãn ghi tên bằng đồng bên dưới mỗi bức tranh mà bạn vừa chọn. Hãy nhớ tên 21 bức tranh của bạn. Đêm đến, trước lúc đi ngủ, bạn thờ phượng Chúa qua Phúc âm Giăng, hãy suy gẫm đến những hình ảnh của Đấng Christ mà bạn đã chọn ra từ mỗi chương của sách Phúc âm nầy.

Sau đây là những “bảng tên bằng đồng” dưới mỗi bức tranh của tôi về Chúa Jêsus dành cho từng chương.

Từ chương 1 đến chương 7:
Chiên Con Của Đức Chúa Trời – Đấng Hoá Nước Thành Rượu
– Chúa Cứu Thế Duy Nhất Đến Từ Đức Chúa Trời – Nước Hằng Sống – Chìa Khoá Kinh thánh – Bánh Hằng Sống – Giáo Sư Đến Từ Thượng Đế.

Từ chương 8 đến chương 14:
Đấng Giải Phóng Chúng Ta – Ánh Sáng Của Trần Gian – Người Chăn Vĩ Đại – Sự Sống Lại Và Sự Sống – Hạt Lúa Mì Chết Để Vinh Hiển Đức Chúa Trời – Người Đầy Tớ Với Chiếc Khăn –Đường Đi, Lẽ Thật Và Sự Sống.

Từ chương 15 đến chương 21:
Cây Nho Mong Đợi Nhánh Nho – Đấng Sai Phái Đức Thánh Linh – Thầy Tế Lễ Cả Cầu Nguyện – Nhân Chứng Hoàn Hảo – Đấng Christ Bị Đóng Đinh – Đấng Christ Sống Lại và Uỷ Thác Trọng Trách.

Đây là những bức tranh Đấng Christ mà tôi ưa thích qua 21 chương của Phúc âm Giăng. Khi nghiên cứu Phúc âm nầy, bạn hãy viết ra nội dung các bức tranh mà bạn phát hiện được trong từng chương sách, vì những bức tranh về Đấng Christ của riêng bạn sẽ có ý nghĩa nhiều hơn những gì tôi suy nghĩ.

Những người cao tuổi trong Hội thánh đầu tiên của tôi đã đặt lời đề nghị giống như những người Hylạp kia, trên một tấm bảng nhỏ bằng đồng gắn ở phía bên trong bục giảng, để cứ mỗi buổi sáng Chúa nhật khi bước lên bục giảng, tôi sẽ nhìn thấy câu: “Thưa ông! Chúng tôi muốn ra mắt Chúa Jêsus!” Họ không chỉ muốn tôi nhìn thấy những lời đó khi tôi giảng, mà họ còn muốn những diễn giả khác được mời đến giảng cũng sẽ nhìn thấy câu ấy nữa. Ở đây ý họ muốn nói rằng “Chúng tôi muốn gặp Chúa Jêsus mỗi khi Lời Chúa được giảng ra từ toà giảng nầy.

Hãy cầu xin Đức thánh Linh cho bạn có một cái nhìn đa dạng về Chúa Jêsus khi bạn đọc Phúc âm Giăng. Sau đó, bạn hãy trả lời hai câu hỏi còn lại: “Đức tin là gì? Và sự sống đời đời là gì?” Bạn sẽ tin nhận, được tái sinh, được sự sống đời đời, khi bạn gặp Chúa Jêsus!

Chương 8:“KHÁI QUÁT VỀ PHÚC ÂM GIĂNG”

Khi các diễn giả học cách giảng một bài giảng, họ thường được khuyên phải làm ba điều sau: “Thứ nhất, hãy giới thiệu cùng thính giả những gì bạn sắp sửa nói với họ. Thứ hai, nói cho họ nghe những điều đó. Cuối cùng, tóm tắt lại với họ những gì bạn vừa nói xong!” Khi Giăng viết Phúc âm nầy thì 18 câu đầu của sách được xem là phần mở đầu mà Giăng đã dùng để giới thiệu những điều ông sắp sửa nói với chúng ta. Sau đó, từ câu 19 của chương 1 cho đến hết câu 29 của chương 20, ông nói cho chúng ta nghe những điều đó. Cuối cùng,qua những câu 30 và 31 của chương 20, ông tóm tắt lại những gì ông vừa nói với chúng ta.

Khi giới thiệu những điều sắp sửa nói với chúng ta, giữa những lẽ thật khác, ông cho chúng ta biết Ngôi Lời hằng sống của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt sống giữa chúng ta, vậy hễ những ai nhận Ngài (tin Ngài) hoặc hết lòng đáp lại lời mời gọi của Ngài thì người đó sẽ được tái sinh. Họ sẽ nếm trải kinh nghiệm được một sự tái sinh không phải như sự sinh ra trong xác thịt hay tự nhiên. Nhưng, họ đã được sinh ra bởi Đức Chúa Trời.

Sau khi giới thiệu những điều sắp sửa nói với chúng ta, ông bắt đầu đưa ra những ví dụ về những người thực sự tiếp nhận Chúa Jêsus được sinh ra từ trên cao. Từ chương nầy đến chương khác, Giăng đưa ra nhiều thí dụ về cách người ta được sinh lại như thế nào khi họ thực sự tiếp nhận Chúa Jêsus Christ. Ông bắt đầu với việc kể cho chúng ta về cách mà các sứ đồ đầu tiên đã tiếp nhận Chúa Jêsus làm Chúa Cứu Thế của họ như thế nào. Họ hỏi Ngài sống ở đâu. Ngài liền mời họ đến thăm nơi Ngài ở và xem Ngài sống ra sao. Bởi vì họ quyết định đến xem Ngài ở đâu và sống thế nào, cho nên sau đó họ đã sống cho Ngài và chết vì Ngài, tất nhiên họ đã kinh nghiệm được ý nghĩa của việc được sinh lại bởi Đức Chúa Trời là thể nào khi họ sống cùng Ngài.

Trong chương 2, sự tái sinh được mô tả theo nghĩa bóng khi Chúa Jêsus được nói đến như là Đấng có thể hoá nước thành rượu. Những bước dẫn đến phép lạ nầy, bởi ứng dụng thực
tiễn, đưa đến sự tái sinh, đã được mô tả cho chúng ta theo lối nói hình bóng. Trước hết, qua câu nói của Mari: “Người ta không có rượu nữa.”(2:3) Vì trong Kinh thánh, rượu biểu tượng cho niềm vui, với sự ứng dụng thiêng liêng, những lời Mari vừa nói như là sự thừa nhận rằng họ không có niềm vui, hay là họ chưa được tái sinh.

Thỉnh thoảng, nước cũng được xem như là biểu tượng về Kinh thánh. Chúng ta đọc thấy Lời Đức Chúa Trời là “hạt giống” dẫn đến sự tái sinh, và chúng ta cũng được bảo rằng đức tin đến khi chúng ta nghe Lời Chúa. Hãy nhìn vào những cái chum lớn loại 70 lít đang được đổ đầy nước, đây là một bức tranh của đời sống chúng ta được đổ đầy Lời Chúa là bước dẫn đến sự tái sinh (Giăng 2:7; Êphêsô 5: 26; I Phi 1: 23; Rô 10: 17).

Những lời Mari nói với các đầy tớ đã tuyên bố rằng chìa khoá để khiến Lời Chúa trở nên có quyền năng trên đời sống chúng ta là: “Người biểu chi hãy vâng theo cả.” (2:5) Trong khi bạn đang đổ đầy Lời Chúa vào tâm trí mình, hễ Ngài bảo bạn làm điều gì thì bạn hãy luôn làm theo điều đó. Những bước dẫn đến sự tái sinh nầy cũng có thể được áp dụng như là một công thức cho sự phấn hưng đời sống tâm linh một cách cá nhân, khi sự phấn hưng tâm linh là cần thiết.

Những ai quen thuộc với Phúc âm Giăng đều biết rằng chương 3 là chương nói về việc Chúa Jêsus bảo Rabi Nicôđem rằng ông phải được sinh lại. Xem xét thật kỹ chúng ta sẽ thấy đây là lần duy nhất Chúa Jêsus dùng từ ngữ nầy để Ngài trò chuyện với một trong số những giáo sư tài ba lỗi lạc của dân Ysơraên. Cho dù Ngài không hề dùng từ ngữ “được sinh lại” nầy với những người khác, nhưng theo Giăng thì đó là điều sẽ xảy ra với người nào thực sự tin nhận Chúa Jêsus.

Nicôđem xưng nhận Chúa Jêsus bằng lời tuyên bố Ngài là Giáo sư đến từ Thượng Đế. Có người bảo: “Tất cả những gì chúng ta thực sự tin thì chúng ta mới làm. Những gì còn lại chỉ là lời nói giáo điều.” Như thể cuộc chuyện trò nầy được bắt đầu khi Nicôđem nói với Chúa Jêsus rằng: “Tôi có chứng kiến những việc Ngài làm, do đó bây giờ tôi đến đây để nghe Ngài nói về đạo”. Khi nghe sự xưng nhận nầy, Chúa Jêsus có ý muốn nói với vị Rabi lỗi lạc nầy rằng: “Ngươi phải được sinh lại. Ngươi phải bắt đầu bằng một cách khác, và chắc chắn ngươi phải bắt đầu với Ta.”

Chúa Jêsus nói với vị giáo sư của dân Ysơraên nầy rằng chớ ngạc nhiên khi ông ta phải được sinh lại, là điều nghe thực sự khó hiểu, không có chứng cứ, và không thể nào xảy ra được. Theo Chúa Jêsus, mục đích của sự tái sinh nầy là để thấy được vương quốc của Đức Chúa Trời và bước vào đó. Điều nầy đơn giản dạy rằng Đức Chúa Trời là Vua và chúng ta sẽ là những thần dân của Ngài. Điều quan trọng mà chúng ta nhìn xuyên suốt Kinh thánh đều tập trung vào cụm từ: “Đức Chúa Trời là trên hết !”

Trong cuộc trò chuyện với Nicôđem, Chúa Jêsus đã đưa ra những lời tuyên bố quả quyết nhất về chính mình Ngài. Ngài tuyên bố rằng Ngài là Con độc sanh của Đức Chúa Trời, là Giải pháp duy nhất đối với vấn đề tội lỗi, và Ngài chính là Chúa Cứu Thế duy nhất đến từ Đức Chúa Trời. Ngài khẳng định hễ ai tin Ngài khi nghe Ngài tuyên bố về chính mình Ngài sẽ nhận được sự cứu rỗi đời đời, còn nếu không tin Ngài thì chắc chắn sẽ bị án phạt mãi mãi (3: 14-21). Những lời tuyên bố nầy là câu trả lời cho câu hỏi thứ hai của Nicôđem. Câu hỏi đó là: “Phải làm thế nào?” Chúa trả lời ông chỉ với một từ: “Tin”. Về phần chúng ta, để kinh nghiệm được sự tái sinh, trước hết chúng ta phải tin. Về phần Đức Chúa Trời thì giống như gió. Chúng ta không thể thấy hoặc đoán trước được gió. Theo Chúa Jêsus thì: “Hễ người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy”. Mặc dầu chúng ta không thấy trong cuộc trò chuyện nầy có sự xưng nhận đức tin của Nicôđem, hoặc ở các chỗ khác trong Phúc âm nầy khi đề cập đến ông ta, nhưng theo truyền khẩu thì chúng ta biết ông đã được sinh lại (7:50;
19:38-42).

Chương 4 kể lại câu chuyện về một phụ nữ Samari tội lỗi được tái sinh. Mặc dù Chúa Jêsus đã không dùng hai từ “tái sinh” nầy để nói với bà ta, khi Ngài làm cho các ẩn dụ nầy thích ứng với các nan đề của bà, chúng ta vẫn nhận thấy rằng đây là một hình ảnh khác về người đã được sinh lại bởi vì bà đã thực sự tiếp nhận Ngài. Ngài bày tỏ chính Ngài là Nước Hằng Sống và nói với bà rằng hễ ai uống Nước Hằng Sống nầy sẽ không bao giờ còn khát nữa.

Chúa bảo rằng Nước Hằng Sống mà bà đang uống đây sẽ trở thành mạch nước từ trong bà phun ra khiến nhiều người khác cũng đến để uống nữa. Điều nầy đã được ứng nghiệm khi người phụ nữ nầy thực sự được tái sinh, bà liền đi rao báo cho nhiều người Samari khác nghe về Đấng Christ. Bà khám phá ra hai từng trải lớn nhất trong cuộc sống: bạn cần phải được tái sinh, và bạn sẽ trở thành ống dẫn sự sống để qua đó nhiều người khác cũng sẽ được tái sinh.

Hãy suy nghĩ về những câu trả lời cho ba câu hỏi trong 4 chương đầu của sách Phúc âm nầy.Chúa Jêsus là ai? Ngài là Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời, Đấng đã trở nên xác thịt sống giữa chúng ta và nhờ Ngài chúng ta mới có thể được sinh lại. Ngài là Đấng có khả năng biến nước thành rượu. Ngài là Chúa Cứu Thế, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta. Ngài là Nước Hằng Sống làm thoả cơn khát cho đời sống chúng ta, và trở thành mạch nước sống phun ra từ trong chúng ta để từ đó nhiều người khác cũng có thể đến uống và được tái sinh.

Đức tin là gì? Đức tin là đáp lại một cách đúng đắn với những lời Chúa Jêsus đã tuyên bố về Ngài. Đức tin là “Đến để xem nơi Ngài ở và cách Ngài sống thế nào”. Đức tin là nghe và vâng theo Lời Đức Chúa Trời. Đức tin thì đơn giản như việc uống nước mà bạn tin rằng nước đó sẽ làm cho bạn đã khát.

Còn sự sống là gì? Sự sống là sự sinh lại. Sự sống là điều làm cho nước của bạn hoá thành rượu. Sự sống là sự nhìn thấy và bước vào vương quốc đời đời của Đức Chúa Trời. Sự sống giống như là bạn uống nước Hằng Sống là nước làm thoả cơn khát của đời sống bạn, và nước ấy cũng sẽ trở thành mạch nước cho người khác được thoả mãn cơn khát thuộc linh
của đời sống họ.

Những Lời Tuyên Bố Của Đấng Christ:

Bốn chương kế tiếp của Phúc âm nầy ký thuật về một cuộc đối thọai rất lâu và căng thẳng giữa Chúa Jêsus với các lãnh đạo tôn giáo. Cuộc đối thọai nầy bị gián đoạn và thay đổi bởi nơi chốn và thời điểm khác nhau, nhưng nó vẫn được tiếp tục cho đến khi có một số lãnh đạo tôn giáo tin nhận Ngài và một số khác thì lại cố ném đá Ngài vì họ cho rằng Ngài phạm thượng – bởi vì Ngài tuyên bố Ngài bằng Đức Chúa Trời và cũng thật sự là Đức Chúa Trời. Rõ ràng Chúa Jêsus muốn cuộc chạm trán nầy xảy ra. Ngài xác chứng những gì Ngài đã nghe với các lãnh đạo tôn giáo đó qua việc cố tình vi phạm Luật ngày Sabát.

Ngài đã chữa lành cho một người nọ trong ngày Sabát tại ao Bêtếtđa, là nơi rất gần Đền thờ. Ngài ra lịnh cho người đàn ông đó đứng lên xếp giường mình lại vác đi đến trước Đền thờ. Đây là việc phạm vào Luật ngày Sabát là không được mang vác nặng trong ngày ấy. Sự chữa lành nầy là chất xúc tác khiến cho cuộc đối thoại thù địch đó lại tiếp tục cho đến hết chương 8.

Sự chữa lành cho người đàn ông nầy tiếp tục trở thành hình ảnh điển hình về những người được tái sinh mà Giăng đã ghi lại, đó là người đã thực sự tiếp nhận Chúa Jêsus. Trong trường hợp nầy, mặc dầu có vô số bịnh nhân, nhưng Chúa Jêsus chỉ chữa lành cho một người mà thôi. Ngài đã chữa lành cho con người đặc biệt nầy bởi vì anh ta đã từ bỏ cái hồ nước cùng với niềm tin mê tín về quyền năng chữa lành của cái hồ kia. Trong câu chuyện nầy, đức tin trở thành là vấn đề từ bỏ mọi điều mà chúng không làm cho chúng ta trở nên tốt được.

Khi cuộc đối thọai bắt đầu, Chúa Jêsus đưa ra những lời tuyên bố khiến Ngài trở nên khác thường: Ngài tuyên bố Đức Chúa Trời đã trao mọi quyền phán xét cho Ngài. Ngài tuyên bố quả quyết rằng Ngài có thể làm được những gì Đức Chúa Trời làm. Nếu chúng ta có sẵn một cuốn sổ tay và ghi xuống tất cả những lời tuyên bố nầy của Chúa Jêsus, thì chúng ta sẽ thấy rằng Ngài để cho chúng ta có quyền chọn lựa giống như mấy người kia, hoặc tin nhận Ngài hoặc ném đá xua đuổi Ngài ra khỏi đời sống chúng ta mãi mãi. Theo lời của một tác giả người Anh nọ, hoặc chúng ta sẽ cho Ngài là một người nói dối hay là một kẻ điên, hoặc chúng ta phải gọi Ngài là Cứu Chúa để rồi chúng ta thờ phượng và bước theo Ngài. Sau khi làm cho những nhà lãnh đạo tôn giáo ở đó kinh ngạc vì những lời xác nhận của Chúa Jêsus, Ngài bảo họ rằng họ không hề thiếu chứng cớ để có thể tin những lời xác nhận ấy. Biết họ hết lòng tôn kính Môise, nên Chúa Jêsus khẳng định với họ rằng chính Môise đã viết về Ngài. Họ sẽ không thể phủ nhận Giăng Báptít là đấng tiên tri. Do đó, Chúa Jêsus đã trích dẫn những lời xác nhận của Giăng nói về Ngài. Ngài trích dẫn Lời Đức Chúa Cha đã phán lúc Ngài chịu phép báptem như là một chứng thực về những lời tuyên bố của Ngài.Ngài cũng đưa cho chúng ta những câu nền tảng của toàn bộ Kinh thánh khi Ngài nói với họ rằng cả Kinh thánh đều làm chứng về Ngài và xác thực những lời tuyên bố của Ngài (5:39 40)

Trong chương 6, sau khi Ngài làm phép lạ hoá bánh cho 5000 người ăn thì Ngài đã giảng một bài giảng khó hiểu nhưng sâu sắc vô cùng. Bài giảng Bánh Sự Sống thực sự là công việc đầy ý nghĩa. Ngài bắt đầu cuộc đối thoại ấy bằng việc nói chuyện với các chức sắc tôn giáo là những người đang làm công việc vô ích. Họ hỏi Ngài thường làm gì cả ngày, Ngài liền nói cho họ biết về công việc của Ngài.

Thực chất, Ngài nói rằng Ngài phán những lời Thần Linh và sự sống, là những lời mà Đức Chúa Trời bảo Ngài phán. Khi người nào tích cực đáp ứng những lời nầy, thì họ sẽ khám phá ra Ngài chính là Bánh Sự Sống, Đấng đến từ trời.

Trong chương 4, Ngài là Nước Hằng Sống, còn trong chương nầy, Ngài là Bánh Hằng Sống.Có nhiều người tự xưng là môn đồ đã từ chối không tiếp tục đi theo Ngài nữa sau khi họ nghe bài giảng nầy, bởi vì Ngài nói rằng họ “phải ăn thịt Ngài và uống huyết Ngài” thì mới nhận lãnh được sự sống đời đời, và việc nầy có thể được thực hiện nhờ vào Bánh Hằng Sống mà Ngài đã tuyên bố. Tại đây, Phierơ đã đưa ra cho chúng ta câu trả lời rất hay cho câu hỏi “Đức tin là gì?” Khi Chúa Jêsus hỏi Phierơ có phải ông cũng sẽ lìa bỏ Ngài chăng, cho dầu chưa hiểu hết được nhưng ông nói tin Ngài. Hãy như Phierơ, chúng ta nên tin Chúa Jêsus và bước theo Ngài ngay cả khi chúng ta chưa hiểu.

Chúa Jêsus thực sự muốn dạy rằng việc ăn và uống là những minh họa cho đức tin. Bạn tin ly nước kia sẽ làm cho bạn hết khát và cứu sống bạn. Bạn bày tỏ niềm tin đó của mình khi bạn uống ly nước ấy. Bạn tin bánh sẽ làm cho bạn no, vì vậy bạn ăn bánh đó. Theo Chúa Jêsus, đức tin là ăn và uống.

Ăn thịt Ngài có nghĩa là tin vào mọi điều Ngài dạy dỗ và làm gương khi Ngôi Lời đã trở nên xác thịt. Uống huyết Ngài có nghĩa là tin vào ý nghĩa sự chết của Ngài trên thập tự giá rằng Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời khi Ngài bị treo lên trên đó. Về phương diện tiệc thánh và thập tự giá tiêu biểu cho điều nó muốn nói đến xem ra còn dễ hiểu hơn nhiều so với ẩn dụ rất khó hiểu nầy. Các sứ đồ và môn đồ lúc đó đều không thể hiểu được điều nầy.

Trong chương 7, Ngài khẳng định sự dạy dỗ của Ngài cũng chính là sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời. Khi lời tuyên bố nầy bị chất vấn thì Ngài đã cho chúng ta một câu trả lời khác để giải đáp cho câu hỏi đức tin là gì. Ngài bảo những ai đến nghe sự dạy dỗ của Ngài với ý muốn làm theo thì sẽ nhận biết sự dạy dỗ của Ngài cũng là sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời (7:17). Theo tri thức của đời nầy là “Tôi hiểu thì tôi mới làm!” Tức là, có hiểu biết thì mới dẫn đến hành động. Còn theo Chúa Jêsus thì hành động sẽ dẫn đến sự hiểu biết.

Chương 8 đã đưa cuộc đối thoại đến hồi gay cấn. Chúa Jêsus giảng một cách hùng hồn khi bảo những chức sắc tôn giáo kia là con cái của ma quỷ và họ hiện đang ở trong sự trói buộc của ma quỷ là cha của họ. Ngài nói họ là những nô lệ của tội lỗi và họ sẽ chết trong tội lỗi mình nếu họ không chịu tin Ngài. Ngài tuyên bố Ngài đã đến từ trời, còn họ đến từ địa ngục, và họ sẽ phải xuống địa ngục nếu họ không tin.

Khi Ngài kết thúc bài giảng đầy khâm phục nầy, có nhiều người trong số các lãnh đạo tôn giáo tin Ngài (8:30-36). Để đáp lại sự xưng nhận đức tin của họ, Ngài đã trình bày 3 giai đoạn của sự tái sinh.

Bước thứ nhất để được tái sinh là tin. Ngài bảo những người đã tin nhận Ngài hãy tiếp tục tin Lời Ngài và trở thành môn đồ thật của Ngài. Ngài giải thích giai đoạn thứ hai là tiếp tục tin Lời Ngài và trở nên môn đồ thật của Ngài.

Sau đó Ngài mô tả giai đoạn ba khi hứa rằng họ sẽ kinh nghiệm được sự tự do thật. Giai đoạn ba là tiếp tục tin Lời Chúa sẽ dẫn họ đến sự hiểu biết về mối tương giao với Đấng Lẽ Thật. Ngài hứa rằng nếu Con buông tha họ thì họ sẽ thật được tự do. Theo lời hứa của Chúa Jêsus, giai đoạn ba của sự tái sinh giống như việc ra khỏi tù vậy (8:30-36).

Lời tuyên xưng cuối cùng của Ngài trong cuộc đối thoại nầy là khi những người Do Thái kia không tin nên tố cáo Ngài vì đã dám ngụ ý rằng Ngài biết Ápraham từ trước. Ngài đáp: “Trước khi chưa có Ápraham, đã có Ta!” Đó là khi một số trong bọn họ cố tình ném đá Ngài. Hãy suy ngẫm tất cả những lời tuyên bố nầy của Chúa Jêsus và sau đó, trong tinh thần cầu nguyện, hãy trả lời câu hỏi mà đã có lần Chúa hỏi các sứ đồ của Ngài: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” (Mathiơ 16:15).

Chương 9 bắt đầu với một phép lạ về sự chữa lành tiếp theo sau bài giảng mạnh mẽ khác của Chúa Jêsus. Các diễn giả ngày nay thường thì họ trình bày về lẽ thật mà họ muốn giảng trước, rồi sau đó mới minh họa cho lẽ thật ấy. Tương tự như tiên tri Giêrêmi và Êxêchiên là những diễn giả đã bắt đầu bài giảng của mình bằng những hành động biểu tượng,hoặc kịch câm để thu hút sự chú ý của thính giả, Chúa Jêsus đã nói trước các bài giảng của Ngài về Nước Hằng Sống, Bánh của Sự Sống, và Sự Sáng của thế gian, kèm theo những sự kiện minh họa cho sứ điệp mà Ngài sắp giảng.

Sau khi chữa lành cho một người đàn ông 40 tuổi đã bị mù bẩm sinh, Chúa Jêsus giảng rằng Ngài là Sự Sáng của thế gian. Ngài tuyên bố Ngài là Sự Sáng đặc biệt có thể chỉ ra sự mù lòa cho những ai bị đui mù thực lòng muốn nhìn thấy, và Ngài sẽ ban ánh sáng cho người nào nhận biết mình bị mù.

Có một số công nhân mỏ than bị mắc kẹt trong hầm mỏ suốt ba ngày đêm vì xảy ra một vụ nổ làm sập hầm, nhưng cuối cũng họ đã được cứu sống. Khi một trong số các thợ mỏ đó hỏi những người cứu hộ tại sao lại không mang theo đèn, lúc ấy cả mấy người thợ mỏ lẫn các nhân viên cứu hộ mới vỡ lẽ ra anh ta đã bị mù do vụ nổ gây nên. Anh đã bị mù suốt ba ngày qua, thế nhưng anh ta đã không biết mình bị mù mãi cho đến khi các nhân viên cứu hộ đến giải cứu, là những người thực sự có mang theo đèn. Chúa Jêsus tuyên bố rằng Ngài là loại Sự Sáng đó – Sự Sáng của thế gian, đã đem đến ánh sáng cho người mù tâm linh và chỉ ra sự đui mù của những ai không nhận biết mình bị mù lòa.

Khi các nhà lãnh đạo tôn giáo hiểu ra được điều Ngài đang nói, họ liền hỏi Ngài có phải Ngài bảo họ là những kẻ mù thuộc linh chăng. Ngài trả lời nếu họ bị mù thì hẳn họ đã không phạm tội. Nhưng bởi vì họ tự hào cho mình là người thấy, nên họ không khỏi phạm tội. Theo ý nghĩa thần học, chúng ta có kết luận là không thấy thì không phạm tội, còn theo Chúa Jêsus thì chối bỏ Sự Sáng chính là phạm tội (9: 40-41; 15: 22).

Chương 10 giống như là chương nối tiếp Thi thiên về Đấng Chăn Chiên của Đavít. Chúa Jêsus tuyên bố thật rõ rằng Ngài là Đấng Chăn Chiên Hiền Lành mà Đavít đã viết trong Thi Thiên ấy. Ngài dùng nhiều ẩn dụ để tuyên bố rằng Ngài đang dẫn những người Do Thái cuồng tín kia đi ra khỏi tôn giáo xưa cũ để theo Ngài đến với sự cứu rỗi. Điều nầy đã được ứng dụng theo nghĩa đen đối với người mù mà Chúa đã chữa lành cho, là người bị đuổi ra khỏi Nhà hội vì đã xưng nhận Chúa Jêsus là Cứu Chúa của mình.

Chương 11 là chương nói về sự sống lại kỳ diệu trong Phúc âm Giăng. Đây là câu chuyện rất thú vị cho thấy Chúa Jêsus đã cho phép ba người được kinh nghiệm về hai vấn đề nan
giải nhất trong cuộc sống là bệnh tật và sự chết chóc, bởi vì Ngài vô cùng yêu thương họ. Ngài muốn họ học được rằng Ngài chính là Sự Phục Sinh (đắc thắng sự chết), và là chìa khoá
để khám phá ra sự sống đời đời. Họ kinh nghiệm được bài học nầy qua sự chết của Laxarơ, là người tin và sống trong sự liên hiệp với Đấng Christ nên không hề chết (11: 25-26). Câu chuyện phép lạ kỳ diệu nầy đã mang một luồng sinh khí mới và sự sống đời đời đến với hàng triệu người nghe giảng về câu chuyện nầy trải qua nhiều thế kỷ của lịch sử Hội thánh.

Chương 12 phân chia Phúc âm Giăng thành hai phần. Gần một nửa số chương của sách bao gồm nội dung chính nói về 33 năm đầu đời của Đấng Christ, nửa phần còn lại trong Phúc âm nói về tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Ngài trên đất.

Qua Phúc âm nầy, chúng ta đọc thấy cụm từ “Thì giờ của Ngài chưa đến”. Trong chương nầy, chúng ta nghe Chúa Jêsus cầu nguyện: “Lạy Cha! Thì giờ đã đến rồi. Con sẽ nói gì đây? Xin cứu Con ra khỏi thì giờ nầy ư? Nhưng vì thì giờ đã định nầy mà Con đến thế gian. Cha ơi! Con xin làm sáng danh Cha!” Bấy giờ có tiếng từ trời phán rằng: “Ta đã làm sáng danh Ta qua cuộc đời của Con rồi, và Ta sẽ còn làm cho sáng danh nữa! ”

Kế đó, Chúa Jêsus lui về ẩn mình tại một phòng cao cùng với 12 sứ đồ. Ngài làm cái điều mà tôi gọi là “Cuộc triệu hồi cuối cùng của Cơ Đốc nhân”. Ngài đã bắt đầu nhiệm mạng của Ngài với “Cuộc triệu hồi đầu tiên” khi Ngài Giảng Bài Giảng Trên Núi. Đó là nơi Ngài đã chiêu mộ các sứ đồ. Ngài dạy dỗ, chỉ dẫn và huấn luyện họ suốt trong 3 năm. Lần cuối cùng của Ngài ở với họ chính là “bài tốt nghiệp”của họ sau 3 năm học “thần học” nầy.

Trong phần nầy, Chúa Jêsus giảng bài giảng dài nhất được gọi là “Bài Giảng Trên Phòng Cao”. Nó được ghi lại từ chương 13 đến hết chương 16 của Phúc âm nầy. Chương 17 là lời cầu nguyện đặc biệt của Chúa Jêsus cho các sứ đồ, và cho những người sẽ tin Chúa qua họ, kể cả bạn và tôi.

Bài giảng nầy thực sự chỉ là một cuộc chuyện trò thân mật giữa Chúa Jêsus với các sứ đồ. Họ hỏi Ngài về những thắc mắc của họ, và qua bài giảng nầy nhiều câu hỏi của họ cũng đã được giải đáp. Trong chương 13, chúng ta đọc thấy Ngài bắt đầu bài giảng bằng một hành động biểu tượng là Ngài rửa chân cho họ. Luca nói cho chúng ta biết tại phòng cao đó,
các sứ đồ đã tranh cãi với nhau về việc ai sẽ là lớn hơn hết trong Nước Trời mà họ tin rằng Ngài sắp thiết lập (Luca 22: 24-30). Thật là ấn tượng khi Ngài là Thầy và cũng là Chúa của
họ đóng vai trò của một người đầy tớ đi rửa chân cho họ.

Khi rửa chân cho các môn đồ xong, Chúa Jêsus hỏi: “Các ngươi có hiểu điều Ta đã làm cho các ngươi chăng?” (13:12) Câu hỏi đã được giải đáp trong Giăng 13:1 là: “Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian thì cứ yêu cho đến cuối cùng”. Ngài đưa ra ứng dụng: “Vì Ta đã làm gương cho các ngươi. Nếu Ta rửa chân cho các ngươi, thì các ngươi cũng nên rửa chân cho nhau.”Sau đó, Ngài thực sự trả lời cho câu hỏi nầy và đưa ra ứng dụng sống động khi Ngài dạy: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau. Như Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy.” (13: 34-35)

Trong ba năm sống với Chúa Jêsus, các sứ đồ đã được Ngài yêu thương bày tỏ qua nhiều cách mà trước đây họ chưa bao giờ có được. Tất cả họ đang ở trên phòng cao đó bởi vì Chúa đã yêu thương họ và họ cũng đang cố gắng làm điều gì tốt nhất để đáp lại tình yêu thương ấy. Họ cùng nhau lập một kết ước với Đấng Christ vì đây là lần cuối cùng họ ở với Ngài trước khi Ngài chịu chết. Điều răn mới nầy thách thức họ lập một giao ước mới và một cam kết mới – một cam kết với những người khác. Điều răn mới nầy cũng đã tạo ra một cộng đồng mới, và nó đã trở thành Hội thánh Chúa. Ngài muốn cộng đồng mới nầy là cộng đồng bao gồm những người biết sống yêu thương nhau – một cộng đoàn yêu thương.

Trong chương 14, Chúa Jêsus đã giảng trước một bài giảng cho “Tang lễ” của Ngài trước khi Ngài chết. Ngài bảo các sứ đồ Ngài sẽ lìa xa họ (nghĩa là Ngài sắp phải chịu chết),nhưng lòng họ chớ có bối rối vì Ngài đang chuẩn bị cho họ một nơi ở. Họ cũng đừng nên bối rối bởi vì sẽ có một Đấng khác đến an ủi họ. Và nhờ Đấng Yên ủi nầy, họ sẽ luôn có sự bình an siêu nhiên trong lòng, như điều Chúa đã nói với họ là “Sự bình an của ta”.

Ngài cũng an ủi họ bằng cách nói với họ rằng mối tương giao của họ với Ngài thậm chí sẽ càng trở nên mật thiết hơn sau khi Ngài chết. Ngài bảo họ chìa khoá để khám phá ra mối tương giao đó là hãy vâng lời Ngài và sự dạy dỗ của Ngài, Đức Thánh Linh sẽ ban phước cho sự vâng lời đó bằng cách tạo ra mối tương giao mật thiết giữa họ và Chúa Cứu thế phục sinh. Chìa khoá để khám phá ra lời Chúa và các công việc Ngài chính là ở trong sự tương giao mật thiết của Ngài với Đức Chúa Cha, còn chìa khoá để khám phá ra lời nói và việc làm của họ là ở trong mối tương giao mật thiết của họ với Ngài qua Đấng Yên ủi,tức là Đức Thánh Linh (10:30; 14:22-23).

Sau khi dạy dỗ những điều nầy nơi Phòng Cao, Ngài dẫn các sứ đồ đi vào một khu vườn và có lời động viên để cấp văn bằng tốt nghiệp cho họ. Ngài kéo xuống một dây nho có nhiều nhánh đang trĩu quả. Ngài dùng nó để minh họa cho ẩn dụ có ý nghĩa rất thâm thuý trong bài học mà Ngài vừa dạy họ nơi Phòng Cao. Ngài chỉ ra cho họ thấy lẽ thật qua hình ảnh những nhánh nho đang ra lắm trái bởi vì chúng được gắn liền với dây nho, sau đó Ngài khích lệ họ hãy cứ ở trong mối liên hệ với Ngài, và Ngài hứa rằng nếu họ làm đúng như vậy thì họ sẽ được kết quả.

Kế tiếp, Ngài cho họ biết sáu lý do tại sao họ cần phải kết quả. Họ phải kết quả vì đó là cách họ cho thế gian nầy biết họ là môn đồ của Ngài. Họ phải kết quả vì qua đó họ mới làm sáng danh Đức Chúa Trời, điều nầy sẽ đem đến cho họ niềm vui lớn, Ngài đã chọn và chỉ định họ phải có kết quả, Ngài ra lịnh họ phải kết quả, và họ bắt buộc phải kết quả bởi vì Ngài không còn cách nào khác để đến với thế gian nầy ngoại trừ qua họ (15:1-6).

Có một bài thơ mô tả hình ảnh Chúa Jêsus ngự trên đám mây sau khi Ngài chịu chết và đã sống lại. Ngài đang đàm luận với các thiên sứ về cuộc đời và công việc Ngài, kể cả kế hoạch đến với thế gian qua các sứ đồ của Ngài. Một trong số các thiên sứ hỏi Ngài sẽ làm gì nếu như các sứ đồ không dắt đem thế giới nầy về cho Ngài? Ngài đáp: “Vậy thì Ta chẳng còn kế hoạch nào khác!”Lý do cuối cùng tại sao các sứ đồ của Ngài phải kết quả là vì Ngài là Cây Nho và họ chỉ là những nhánh của Cây Nho ấy. Ẩn dụ nầy là một sự khích lệ để kết quả, là lời động viên để cấp văn bằng của Ngài dành cho các sứ đồ, và bày tỏ Đấng Christ là Đấng hôm qua ngày nay không hề thay đổi: vẫn chính là Cây Nho đang trông chờ các nhánh nho.Trong chương 16, Chúa Jêsus hứa sẽ phái Đức Thánh Linh mà Chúa gọi là Đấng Yên ủi đến với họ. Ngài nói về bản tính và nhiệm vụ của Đức Thánh Linh khi đến cùng họ. Nội dung chương nầy đã hoàn toàn được ứng nghiệm trong ngày lễ Ngũ tuần.

Trong chương 17, Chúa Jêsus đã cầu nguyện cho các sứ đồ với lời cầu nguyện thật sâu sắc và đầy cảm động. Xuyên suốt Phúc âm Giăng, Chúa Jêsus luôn đề cập đến những công việc mà Ngài phải hoàn thành. Khi suy gẫm về lời cầu nguyện nầy, bạn sẽ thấy rõ ràng rằng các sứ đồ là những người làm những công việc trọng đại nhất cho Ngài. Trong phần đầu của lời cầu nguyện nầy, Ngài đã cầu nguyện cho công việc của chính Ngài và Ngài tuyên bố rằng Ngài đã làm vinh hiển Cha qua việc Ngài đã hoàn tất công tác mà Cha đã giao cho Ngài.

Kế tiếp, Ngài cầu nguyện cho công việc của các sứ đồ là những người Ngài đã đầu tư rất nhiều trong suốt ba năm thi hành chức vụ của Ngài. Phần cuối cùng trong lời cầu nguyện nầy là sự cầu xin cho những người sẽ tin đến Tin lành qua các sứ đồ. Có nghĩa là Ngài đang cầu nguyện cho Hội thánh Ngài. Ngài cầu nguyện cho chúng ta sẽ sống hiệp một thiêng liêng với Ngài và với nhau để qua đó thế gian sẽ nhận biết và tin rằng Đức Chúa Cha luôn yêu thương họ cũng như Ngài đã yêu thương Con Ngài vậy.

Khi đọc thêm một số câu ở chương 20 bạn sẽ gặp khái niệm nầy trong lời cầu nguyện thật cảm động của Ngài, chúng ta sẽ có sự giải thích của Giăng về Đại Mạng lịnh (20:21). Đến phần kết thúc, Ngài không thể cầu xin Cha đem các sứ đồ hay Hội thánh của Ngài ra khỏi thế gian, bởi vì Ngài đã sai chúng ta vào trong thế gian, như Cha đã sai Ngài đến để tìm và cứu kẻ lạc mất (17:18).

Chương Kết

Hầu hết các học giả đều cho rằng Phúc âm Giăng được kết thúc ở câu 31 của chương 20. Chương 21 được viết như là một phần của Phúc âm nầy thì họ lại cho đó chỉ là phần tái bút.Trong chương kết nầy, Chúa Jêsus nhắc nhở 7 trong số 12 sứ đồ – và Phierơ – rằng Ngài đã giao cho họ nhiệm vụ không phải là đi đánh cá mà là đi đánh lưới người! (21:1-14)
Các sứ đồ nầy đang để hết tâm trí vào việc đánh bắt cá suốt đêm nhưng chẳng kiếm được gì. Từ bờ biển, Chúa Jêsus sau khi sống lại đã hiện ra và trực tiếp bảo họ hãy thả lưới bên hữu thuyền. Ngay khi nhìn thấy lưới mắc đầy cá, Giăng liền nhận ra vị khách lạ đang đứng trên bờ kia chính là Chúa.

Một lần khác Chúa Jêsus sau phục sinh đã hiện ra với các môn đồ vốn từng biết và yêu mến Ngài nhưng họ lại chẳng nhận ra Ngài (Luca 24:30-31). Chính việc đánh bắt cá lạ lùng nầy đã khiến họ biết rằng vị khách lạ trên bờ kia chính là Chúa của họ. Khi Phierơ nhận ra đó là Chúa, ông liền nhảy xuống nước bơi vào bờ. Chúa của họ đã dành cho họ một bữa điểm tâm gồm cá và bánh do chính Ngài sửa soạn.

Trong lúc nầy, Chúa Jêsus có một cuộc trò chuyện với Phierơ đầy lý thú, Ngài đang dạy dỗ cho con người nầy để trở thành vị lãnh đạo đầu tiên của Hội thánh, có hơn 3 bài học sống động nói về việc đánh lưới người tương tự những bài học chúng ta đã suy gẫm khi xem xét cuộc gặp gỡ của Ngài với Phierơ mà Luca đã ký thuật (Luca 5:1-11). Chúng ta có thể nói rằng trong cuộc trò chuyện nầy, Chúa Jêsus đang dấy lên một nhân vật quan trọng từ một con người tầm thường(21:15-17).

Kể từ ngày gặp nhau ấy, Chúa Jêsus đã lần lượt dạy Phierơ 3 bài học: ông là một kẻ tầm thường, ông sẽ là một nhân vật vĩ đại, và điều Chúa Jêsus có thể làm cho một nhân vật vĩ đại đã nhận biết mình vốn là kẻ vô dụng. Phierơ học được bài học thứ nhất kể từ lần đầu ông gặp Chúa Jêsus cho đến khi ông bước ra ngoài bóng tối và khóc lóc đắng cay, bởi vì ông đã chối Chúa của mình ba lần.

Trong thì giờ tâm tình nầy, Chúa Jêsus đang chú tâm dạy Phierơ bài học thứ hai: rằng ông sẽ là một nhân vật vĩ đại. Trong ngày lễ Ngũ tuần, Phierơ, Hội thánh, và cả thế gian học được bài học thứ ba, đó là điều mà Đấng Christ hằng sống đã phục sinh có thể làm cho một nhân vật vĩ đại đã nhận biết mình là kẻ chẳng ra gì.

Bảy người có mặt tại đó vào sáng hôm ấy, là những người đã từng có mặt tại Phòng Cao, khi Phierơ khoe là ông yêu Chúa nhiều hơn họ. Trong sự hiện diện của 7 người nầy, Chúa Jêsus bước vào cuộc đối thoại một cách sâu sắc với Phierơ. Có nhiều cách diễn giải về ý nghĩa sâu sắc của các câu hỏi và những câu trả lời mà Chúa Jêsus và Phierơ đã trao đổi trong cuộc trò chyện nầy. Rất có thể Chúa Jêsus hỏi Phierơ có phải ông thực lòng yêu Chúa nhiều hơn những người đã cùng ăn sáng với Ngài và ông tại bờ biển ấy chăng.

Còn một cách hiểu khác nữa là Chúa hỏi Phierơ rằng có phải ông yêu Chúa hơn yêu những con cá mà ông vừa đánh bắt được không. Điều nầy liên quan đến chính nghề đánh cá nữa. Trong cuộc nói chuyện kỳ trước của Phierơ và Chúa Jêsus, chúng ta học được rằng Chúa có giao cho Phierơ nhiệm mạng “hãy đi đánh lưới người”, vậy mà bây giờ ông ta lại quay về để đánh bắt cá (Luca 5:1-11).

Để hiểu rõ những lời mạnh mẽ đầy cảm xúc mà Chúa Jêsus và Phierơ đã trao đổi với nhau, trước hết chúng ta phải hiểu được ngôn ngữ trong cuộc đối thọai được tường thuật cho chúng ta, ý nghĩa của những từ nói về sự yêu thương mà họ đã nói với nhau. Ví dụ như, khi Chúa Jêsus hỏi Phierơ trước sự chứng kiến của 7 người kia rằng, có phải tình yêu ông dành cho Chúa lớn hơn tình yêu của mấy người nầy dành cho Ngài chăng, thì Chúa đã dùng từ trong tiếng Hylạp là “Agape”.

Điều nầy có nghĩa là Chúa Jêsus đã hỏi Phierơ có phải tình yêu ông dành cho Chúa là tình yêu hoàn toàn hết lòng và vô điều kiện không (I Côr 13: 4-7). Khi Phierơ trả lời rằng ông yêu Chúa, thì ông đã dùng từ “phileo” trong tiếng Hy lạp. Điều nầy có nghĩa là Phierơ đã xưng nhận tình yêu của ông dành cho Chúa Jêsus chỉ là tình bằng hữu bình thường thôi.

Chúa Jêsus hỏi Phierơ lần thứ hai ông có thật lòng yêu Chúa chăng. Một lần nữa Chúa lại dùng từ “agape”. Nhưng, lần nầy Ngài không hỏi Phierơ rằng có phải tình yêu ông dành cho Chúa lớn hơn so với tình yêu của 7 sứ đồ kia đối với Ngài hay không. Trong câu đáp lại lần thứ hai nầy, Phierơ vẫn dùng từ “phileo”. Lại một lần nữa Phierơ thừa nhận tình yêu của mình đối với Chúa chỉ là thứ tình yêu bằng hữu.

Đến lần thứ ba, Chúa Jêsus hỏi Phierơ ông có yêu Chúa không, chỉ có duy nhất lần nầy Ngài mới dùng từ “phileo”. Lúc bấy giờ ý Chúa muốn hỏi Phierơ rằng có phải tình yêu ông dành cho Chúa chỉ là tình bằng hữu thôi sao. Phierơ cảm thấy rất tự ái nên đáp: “Lạy Chúa! Chúa biết hết mọi việc. Chúa biết rằng tôi yêu Chúa!”, và trong lần đáp thứ ba nầy, Phierơ lại dùng tiếng Hy lạp “phileo”. Có lẽ Phierơ như đang nói với Chúa Jêsus thế nầy: “Chúa biết dù gì đi nữa ít nhất tôi cũng là bạn của Chúa mà!”

Suy ngẫm những từ Hylạp nầy chúng ta biết được rằng Phierơ là một con người tan vỡ. Lúc nầy ông không còn khoác lác như hồi còn ở tại phòng cao nữa. Bây giờ ông đang xưng tội và đang nếm trải hai Phước lành đầu tiên: Ông đang than khóc bởi vì ông nhận biết mình là người nghèo khó về tâm linh.

Cuộc trò chuyện giữa Chúa Jêsus và Phierơ thực sự gây xúc động khi chúng ta nhận biết rằng mỗi lần Phierơ xưng nhận tình yêu hèn mọn của mình dành cho Chúa, thì Ngài đã đáp lại sự xưng nhận đơn sơ của ông bằng việc giao phó nhiệm vụ cho ông là hãy nuôi dưỡng và chăn bầy chiên Ngài. Đấng Chăn chiên vĩ đại đã nói rõ ràng rằng Ngài muốn chọn một người từng kinh nghiệm thất bại sẽ là người nuôi dưỡng và chăm sóc chăn bầy chiên cho Ngài. Hiển nhiên Chúa không hề muốn chọn một người hoàn hảo để làm người chăn bầy cho Ngài vì họ sẽ không nhạy cảm và không thể đáp ứng thực tế trước những nhu cầu của bầy chiên Ngài.Tại sao Đấng phục sinh đã tuôn đổ quyền năng phi thường trong ngày lễ Ngũ tuần qua Phierơ? Khi hiểu được những động cơ của cuộc nói chuyện tại bờ biển sáng hôm đó, chúng ta sẽ có câu trả lời cho câu hỏi trên. Hơn bất cứ các sứ đồ nào khác, Phierơ học được điều Đấng Christ có thể làm qua một nhân vật quan trọng đã nhận biết mình là một con người hèn
mọn.

Tại đây, Chúa Jêsus còn dạy một bài học quan trọng về ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống của một sứ đồ (21:18-23). Phierơ thường khoe khoang là sẽ chết với Chúa Jêsus. Trong chương kết của Phúc âm nầy, chúng ta đọc thấy rằng Chúa Jêsus sau khi sống lại đã quyết định nói cho Phierơ biết ông sẽ phải chịu chết cách nào. Nếu lời truyền khẩu chính xác, thì điều nầy có nghĩa là Chúa Jêsus bảo Phierơ rằng ông có đặc ân là sẽ bị đóng đinh ngược lại với Chúa của mình.Lúc nghe điều nầy, Phierơ vẫn biểu lộ cá tính của mình khi đưa tay chỉ vào Giăng, là đồng nghiệp của ông, và hỏi Chúa Jêsus: “Còn người nầy thì sao? Ý Ngài muốn người nầy sống chết như thế nào?” Chúa Jêsus đáp lời Phierơ rằng ý của Ngài về việc sống chết của Giăng thì không có can hệ gì đến ông cả. Lời của Chúa chúng ta dành cho ông là: “Còn ngươi? Hãy theo Ta!”

Trong sự Quan phòng của Đức Chúa Trời, tất cả chúng ta ai nấy đều đã được Chúa định cho mỗi người một vẻ không ai giống ai trên đất nầy. Chúng ta sẽ tìm thấy được chính mình qua sự cứu rỗi của chúng ta. Tại sao chúng ta cần phải khát khao tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời trên đời sống chúng ta, là điều sẽ làm cho chúng ta trở nên phân biệt với mọi người khác trong thế gian nầy, bằng cách so sánh chính chúng ta với ý muốn Ngài trên đời sống của những tín hữu khác?” Trong lần xuất hiện sau phục sinh nầy, Chúa Jêsus nhắc nhở các sứ đồ một cách rõ ràng rằng họ đã được Chúa của họ giao thác nhiệm vụ là hãy ra đi cứu vớt đồng loại. Ngài cũng khích lệ họ hãy chăn dắt và nuôi dưỡng những con chiên lạc mất, là những người họ sẽ tìm kiếm được qua mùa gặt lớn sắp đến.

Trong cuộc tâm tình với Phierơ, Chúa Jêsus thách thức các sứ đồ hãy khám phá ý muốn Ngài trên mỗi đời sống cá nhân của họ rằng Ngài muốn họ đóng vai trò đặc biệt trong chức vụ thu hoạch và chăm sóc, là việc mà họ sẽ bắt đầu vào ngày lễ Ngũ tuần – ngày Hội thánh được khai sinh.

Chương cuối nầy của Phúc âm Giăng giống như một bản nhạc giao hưởng gồm 3 phần. Phần thứ nhất là phần Chúa Jêsus thách thức các sứ đồ hãy dồn tâm trí sức lực vào vụ thu hoạch lớn sắp đến, và chắc chắn sẽ đánh được một mẻ lưới khổng lồ. Phần thứ hai là Ngài thách thức Phierơ và 7 sứ đồ kia hãy đầu tư sức lực và tâm trí vào việc chăm sóc, nuôi dưỡng, những người chắc chắn được cứu trong mùa thu hoạch. Phần thứ ba là phần không những dành cho họ mà còn được ứng dụng cho cả bạn và tôi, rằng hãy khám phá ý muốn của Đức Chúa Trời trên từng đời sống cá nhân chúng ta là hãy vâng theo Đại Mạng Lịnh của Ngài.

Khi các tác giả của 3 sách Phúc âm đầu thuật lại sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá, họ chỉ ghi mấy chữ đơn giản: “Họ đã đóng đinh Ngài”. Vì gần phân nửa sách Phúc âm Giăng đều dành để nói về tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Jêsus, cho nên khi Ngài chết và đã sống lại từ kẻ chết, thì Phúc âm nầy trở thành bản ký thuật đầy đủ nhất về khoảnh khắc quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời Ngài. Như tôi đã có nói, hiện tôi có 6 cuốn sách nhỏ cung cấp thêm những bài bình Luận rất sâu sắc về Phúc âm Giăng thể hiện trên hơn 100 bài giảng được truyền rao qua làn sóng phát thanh. Tôi sẽ dành cho những cuốn sách nhỏ nầy sự bình luận của tôi liên quan đến cái nhìn của Giăng về sự chết và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ.

Tôi xin kết thúc bài nghiên cứu khảo sát sơ lược về Phúc âm Giăng nầy với một sự thách thức. Khi bạn đọc xong Phúc âm Giăng có ý nghĩa sâu sắc nầy, hãy thể hiện lại tất cả các bức họa của bạn về Chúa Jêsus và tự hỏi: Chúa Jêsus là Ai? Đức tin là gì? Sau đó trong tinh thần cầu nguyện, hãy tự vấn chính mình, bởi đức tin bạn nhận biết được Đấng Christ sau khi bạn đã đọc sách Phúc âm nầy. Nếu bạn nhận biết Ngài bởi đức tin, bạn sẽ có sự sống đời đời, giống như nhánh nho sống được là nhờ nó gắn liền với Gốc nho, bạn cũng phải ở trong mối tương giao với Đấng Christ hằng sống, phục sinh.

Một môn đồ của Đấng Christ phục sinh, sống trong mối tương giao với Chúa, đã phản ánh những quan điểm hiện đại và tự do về Đấng Christ khi nói rằng: “Tôi tin Ngài luôn hiện hữu còn người ta thì không tin có Ngài. Ngay cả khi người ta không tin những việc Ngài đã làm, thì tôi vẫn biết rằng Ngài vẫn còn làm”. Có một con cái Chúa ở tuổi cao niên đã từng bảo: “Đấng Christ phục sinh là Đấng nói rằng Ngài luôn hiện hữu, và Ngài có thể làm được mọi sự như Ngài đã nói. Bạn là người mà Ngài nói rằng bạn có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài bảo bạn làm, bởi vì Ngài luôn hiện hữu và luôn ở cùng bạn”.

Đó là những gì Phierơ học được từ Chúa trên bờ biển vào buổi sáng hôm ấy. Tôi xin có lời cầu nguyện chân thành và tha thiết rằng bạn cũng sẽ học được những giá trị đời đời nầy khi bạn kinh nghiệm được sự sống đời đời, bởi vì bạn đã cùng tôi nghiên cứu sách Phúc âm lý thú nầy.

Nguồn tài liệu: HỘI HỢP TÁC TRUYỀN GIÁO QUỐC TẾ TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÁNH KINH