| 
     | 
| 
     | 
    
     | 
[1] [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] [17] [18] [19] [20] [21] [22] [23] [24] [25] [26] [27] [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] [42] [43] [44] [45] [46] [47] [48]
Ê-xê-chi-ên 1   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ ba mươi, ngày mồng năm tháng tư, khi ta đương ở giữa phu tù, trước bờ 
sông Kê-ba, các từng trời mở ra, và ta xem những sự hiện thấy của Đức Chúa Trời.
2. Ngày mồng năm tháng ấy, bấy giờ là năm thứ năm sau khi vua Giê-hô-gia-kin bị 
bắt làm phu tù,
3. lời của Đức Giê-hô-va được phán riêng cho thầy tế lễ Ê-xê-chi-ên, con trai 
Bu-xi, tại trong đất người Canh-đê, trên bờ sông Kê-ba. Ấy là tại đó mà tay Đức 
Giê-hô-va đặt trên người.
4. Nầy, ta thấy có luồng gió băo đến từ phương bắc, một đám mây lớn bọc lửa giăi 
sáng khắp tư bề; từ giữa nó, thấy như loài kim bóng nhoáng ra từ chính giữa lửa.
5. Từ giữa nó, thấy giống như bốn vật sống, h́nh trạng như vầy: bộ giống người,
6. mỗi con có bốn mặt và bốn cánh.
7. Chơn nó thẳng, bàn chơn như bàn chơn ḅ con đực; sáng ngời như đồng bóng 
nhoáng.
8. Dưới những cánh nó, bốn bên đều có tay người; bốn con có mặt và có cánh ḿnh 
như sau nầy:
9. cánh tiếp giáp nhau khi đi, không xây lại, mỗi con cứ đi thẳng tới.
10. C̣n như h́nh mặt nó, th́ bốn con đều có mặt người; bốn con đều có mặt sư tử 
ở bên hữu; bốn con đều có mặt ḅ ở bên tả; và bốn con đều có mặt chim ưng.
11. Những mặt và cánh phân rẽ ra bởi trên cao; mỗi con có hai cánh giáp với nhau, 
và có hai cánh che thân ḿnh.
12. Mỗi con đi thẳng tới: thần khiến đi đâu th́ đi đó, không xây ḿnh lại trong 
khi đi.
13. H́nh trạng của những vật sống ấy giống như h́nh trạng than đỏ và đuốc lửa; 
lửa lên xuống giữa các vật sống ấy, lửa nhoáng sáng và có chớp từ nó phát ra.
14. Các vật sống ấy chạy đi và trở lại như h́nh trạng chớp nhoáng.
15. Vả, đang khi ta ngắm xem các vật sống ấy, nầy, trên đất có một cái bánh xe ở 
kề bên các vật sống ấy, mỗi một trong bốn mặt đều có một bánh xe.
16. H́nh và kiểu những bánh xe ấy giống như bích ngọc; hết thảy bốn bánh đều 
giống nhau; h́nh và kiểu như là bánh xe trong bánh xe.
17. Khi đi tới, th́ đều đi bốn phía ḿnh: khi đi không phải xây lại.
18. Ṿng bánh xe cao và dễ sợ; và ṿng bánh xe của bốn con đều đầy những mắt.
19. Khi các vật sống đi, các bánh xe cũng đi kề bên; các vật sống bị cất lên 
khỏi đất, các bánh xe cũng bị cất lên như vậy.
20. Thần muốn đi đâu th́ các vật sống đi đó; thần đi đó th́ các bánh xe cũng bị 
cất lên kề bên các vật sống; v́ thần của vật sống đó ở trong các bánh xe.
21. Khi các vật sống đi, chúng nó cũng đi; dừng, chúng nó cũng dừng; và khi các 
vật sống bị cất lên khỏi đất, th́ các bánh xe cũng bị cất lên kề bên, v́ thần 
của vật sống ở trong các bánh xe.
22. Ở trên đầu vật sống, thấy một ṿng khung, giống như thủy tinh dễ sợ, giăi ra 
trên đầu chúng nó.
23. Dưới ṿng khung đó, các cánh nó sè thẳng ra, cái nầy đối với cái kia. Các 
vật ấy mỗi con có hai cánh che thân thể ḿnh ở bên nầy và bên kia.
24. Khi đi tới, ta nghe tiếng của những cánh chúng nó, như nước lớn ầm ầm, như 
tiếng của Đấng Toàn năng, tiếng om ṣm như tiếng một đạo binh vậy. Khi dừng lại, 
th́ xủ cánh xuống.
25. Lúc chúng nó dừng lại và xủ cánh xuống, th́ từ nơi ṿng khung trên đầy có 
tiếng vang ra.
26. Bên trên ṿng khung giăi trên đầu các vật sống, có h́nh như cái ngai, trạng 
nó như là bính ngọc; trên h́nh ngai ấy có h́nh như người ở trên nó.
27. Trong ngai và mọi nơi chung quanh, ta cũng thấy như đồng bóng nhoáng, giống 
lửa, từ trạng ngang lưng người ấy trở lên; và từ trạng ngang lưng trở xuống, ta 
thấy như lửa sáng hừng chung quanh.
28. Ánh sáng thấy chung quanh đó giống như ánh sáng của cái mống trong mây khi 
đương mưa. Ấy là tỏ ra h́nh trạng của sự vinh quang Đức Giê-hô-va. Ta thấy th́ 
sấp mặt xuống, và nghe tiếng của một Đấng phán cùng ta.
Ê-xê-chi-ên 2   
 chọn đoạn khác
1. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, chơn ngươi hăy đứng, ta sẽ phán cùng 
ngươi.
2. Ngài vừa phán cùng ta như vậy, th́ Thần vào trong ta, làm cho chơn ta đứng 
lên, và ta nghe Đấng đă phán cùng ta.
3. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, ta sai ngươi đến cùng con cái 
Y-sơ-ra-ên, đến các dân bạn nghịch nổi loạn nghịch cùng ta; chúng nó và tổ phụ 
ḿnh đă phạm phép nghịch cùng ta cho đến chính ngày nay.
4. Ấy là con cái dày mặt cứng ḷng, ta sai ngươi đến cùng chúng nó. Khá nói cùng 
chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va có phán như vậy!
5. C̣n như chúng nó, hoặc nghe ngươi, hoặc chẳng khứng nghe, v́ là nhà bạn 
nghịch, ít nữa chúng nó cũng biết rằng ở giữa ḿnh đă có một đấng tiên tri.
6. Nhưng, hỡi con người, ngươi chớ sợ chúng nó, và chớ sợ lời chúng nó, dầu gai 
gốc ở với ngươi, và ngươi ở giữa bọ cạp mặc ḷng. Phải, dầu chúng nó là nhà bạn 
nghịch, ngươi cũng đừng sợ lời chúng nó, và đừng kinh hăi mặt chúng nó.
7. Vậy, ngươi khá đem lời ta nói cùng chúng nó, dầu nghe, dầu chẳng khứng nghe; 
v́ chúng nó rất là bạn nghịch.
8. Nhưng, hỡi con người, hăy nghe điều ta phán cùng ngươi; chớ bạn nghịch như 
nhà nổi loạn ấy; hăy mở miệng, ăn lấy vật ta ban cho.
9. Ta bèn xem, nầy, có một cái tay giơ đến ta, cầm một bản sách cuốn.
10. Bản ấy giở ra trước mặt ta, có chữ đă chép, cả trong và ngoài; ấy là những 
lời ca thương, than thở, khốn nạn đă chép vào đó.
Ê-xê-chi-ên 3   
 chọn đoạn khác
1. Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hăy ăn vật ngươi thấy; hăy ăn cuốn 
nầy, rồi đi, và nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên.
2. Ta mở miệng ra, và Ngài khiến ta ăn cuốn ấy.
3. Ngài phán: Hỡi con người, hăy lấy cuốn ta cho ngươi mà khiến bụng ăn và làm 
đầy ruột. Vậy ta ăn lấy, th́ trong miệng ngọt như mật.
4. Ngài lại phán: Hỡi con người, hăy đi, hăy đến cùng nhà Y-sơ-ra-ên, đem những 
lời ta, thuật lại cho chúng nó.
5. Vả, ấy chẳng phải ta sai ngươi đến cùng dân nói tiếng mọi rợ khó hiểu; bèn là 
đến cùng nhà Y-sơ-ra-ên.
6. Thật, chẳng phải ta sai ngươi đến cùng nhiều dân nói tiếng mọi rợ khó hiểu, 
mà ngươi không thể hiểu lời chúng nó; nếu ta sai ngươi đến cùng chúng nó, chắc 
chúng nó sẽ nghe ngươi.
7. Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên chẳng nghe ngươi, v́ nó không muốn nghe ta; bởi chưng cả 
nhà Y-sơ-ra-ên đều cứng trán cứng ḷng.
8. Nầy, ta làm cho mặt ngươi dạn nghịch cùng mặt chúng nó, trán ngươi cứng 
nghịch cùng trán chúng nó.
9. Ta làm cho trán ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá lửa. Đừng sợ và đừng 
run rẩy v́ bộ mặt chúng nó, dầu chúng nó là nhà bạn nghịch mặc ḷng!
10. Đoạn, Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hăy nhận vào ḷng và nghe vào 
tai mọi lời ta sẽ phán cùng ngươi.
11. Hăy đi, đến cùng những kẻ bị đày, cùng các con cái của dân ngươi. Khá nói 
cùng chúng nó, dầu chúng nó nghe, dầu chẳng khứng nghe, ngươi cũng nói với rằng: 
Chúa Giê-hô-va có phán như vậy.
12. Bấy giờ Thần cất ta lên, và ta nghe có tiếng ào ào rất lớn ở đằng sau ta 
rằng: Đáng chúc phước cho sự vinh hiển Đức Giê-hô-va từ nơi Ngài!
13. Ta cũng nghe tiếng cánh của các vật sống đập cái nầy với cái khác, tiếng của 
những bánh xe kề các vật ấy, và tiếng ào ào rất lớn.
14. Đoạn, Thần cất ta lên và đem ta đi; ta đi, ḷng ta đầy sự cay đắng nóng nảy, 
tay Đức Giê-hô-va đặt trên ta cách mạnh mẽ.
15. Ta bèn đi đến Tên-A-bíp cùng những kẻ bị đày ở trên bờ sông Kê-ba. Ta dừng 
lại nơi họ đương ở, và trú lại giữa họ bảy ngày, buồn rầu lặng lẽ.
16. Khỏi bảy ngày, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
17. Hỡi con người, ta đă lập ngươi lên đặng canh giữ nhà Y-sơ-ra-ên; khá nghe 
lời từ miệng ta, và thay ta răn bảo chúng nó.
18. Khi ta nói với kẻ dữ rằng: Mầy chắc sẽ chết! Nếu ngươi không răn bảo nó, 
không nói với nó đặng khuyên nó từ bỏ đường xấu để cứu mạng ḿnh, th́ người dự 
đó sẽ chết trong tội lỗi nó; nhưng ta sẽ đ̣i huyết nó nơi tay ngươi.
19. Trái lại, nếu ngươi răn bảo kẻ dữ, mà nó không từ bỏ sự dự cùng đường xấu 
ḿnh, th́ nó sẽ chết trong tội lỗi nó; c̣n ngươi, th́ giải cứu được linh hồn 
ḿnh.
20. Cũng một lẽ ấy, nếu người công b́nh bỏ sự công b́nh mà phạm tội, và ta đặt 
sự ngăn trở trước mặt nó, th́ nó sẽ chết. Thế th́, v́ ngươi không răn bảo người 
ấy, nên nó sẽ chết trong tội lỗi nó, và không c̣n được ghi nhớ những việc công 
b́nh nó đă làm; nhưng ta sẽ đ̣i huyết nó nơi tay ngươi.
21. Trái lại, nếu ngươi răn bảo người công b́nh, khiến đừng phạm tội, mà thật ra 
nó không phạm tội, th́ chắc nó sẽ sống, v́ đă nghe lời răn bảo; c̣n ngươi, th́ 
giải cứu được linh hồn ḿnh.
22. Tại đó, tay Đức Giê-hô-va ở trên ta, và Ngài phán cùng ta rằng: Hăy chờ dậy, 
đi trong nơi đồng bằng, tại đó ta sẽ phán cùng ngươi.
23. Vậy ta chờ dậy và ra đi trong đồng bằng. Nầy, sự vinh hiển Đức Giê-hô-va 
đứng đó, như sự vinh hiển ta đă thấy trên bờ sông Kê-ba. Ta bèn ngă sấp mặt 
xuống,
24. th́ Thần vào trong ta, làm cho chơn ta đứng lên. Đoạn, Ngài phán cùng ta, và 
bảo rằng: Hăy đi, giam ḿnh trong nhà ngươi.
25. Hỡi con người, nầy, người ta sẽ lấy dây trói ngươi, và ngươi không thể đi ra 
giữa chúng nó.
26. Ta sẽ khiến lưỡi ngươi dính vào cửa họng ngươi: ngươi sẽ câm, không quở 
trách chúng nó được; v́ chúng nó là nhà bạn nghịch.
27. Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi, và ngươi khá bảo chúng 
nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ai nghe, hăy nghe; ai không nghe, th́ đừng 
nghe! V́ chúng nó là nhà bạn nghịch.
Ê-xê-chi-ên 4   
 chọn đoạn khác
1. Hỡi con người, hăy lấy một tấm ngói, đặt nó trước mặt ngươi, và vẽ thành 
Giê-ru-sa-lem ở trên.
2. Ngươi khá vây hăm nó; dựng đồn, đắp lũy nghịch cùng nó; đóng quân vây bọc 
lấy, và đặt máy phá thành xung quanh nghịch cùng nó.
3. Lại hăy lấy một chảo sắt, đặt nó làm cái tường sắt giữa ngươi và thành; rồi 
ngươi xây mặt lại cùng nó; nó sẽ bị vây, và ngươi sẽ vây nó. Đó sẽ là một điềm 
cho nhà Y-sơ-ra-ên.
4. Kế đó, ngươi khá nằm nghiêng ḿnh bên tả, và để tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên tại 
đó. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày, th́ mang lấy tội lỗi chúng nó cũng bấy 
nhiêu.
5. V́ ta đă định cho ngươi một số ngày bằng với số năm của tội lỗi chúng nó, là 
ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy.
6. Vả lại, khi những ngày ấy đă măn, ngươi khá nằm nghiêng ḿnh bên hữu, và mang 
lấy tội lỗi của nhà Giu-đa, trải bốn mươi ngày, ta định cho ngươi mỗi một ngày 
thay v́ một năm.
7. Ngươi khá xây mặt và quay cánh tay trần về sự vây hăm thành Giê-ru-sa-lem; 
ngươi khá nói tiên tri nghịch cùng nó.
8. Nầy, ta dùng dây trói ngươi, và ngươi sẽ chẳng quay bên nầy bên kia, cho đến 
những ngày ngươi vây thành đă trọn.
9. Cũng hăy lấy lúa ḿ, mạch nha, đậu, biển đậu, kê và đại mạch, để vào một 
b́nh, dùng làm bánh cho ḿnh; ngươi nằm nghiêng bao nhiêu ngày, th́ ngươi sẽ ăn 
bánh ấy trong bấy nhiêu ngày, tức là ba trăm chín mươi ngày.
10. Đồ ăn ngươi sẽ ăn, cứ mỗi ngày nặng hai mươi siếc-lơ; ngươi sẽ ăn theo th́ 
giờ.
11. Nước ngươi uống cũng sẽ lường, là một phần sáu hin; theo th́ giờ mà uống.
12. Ngươi sẽ ăn bánh ấy như bánh mạch nha, mà phải dùng phân ngươi nấu chín 
trước mắt chúng nó.
13. Đức Giê-hô-va lại phán: Ấy con cái Y-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh dơ bẩn của chúng nó 
như vậy, trong các nước mà ta sẽ đuổi chúng nó đến.
14. Ta bèn nói: Ôi! hỡi Chúa Giê-hô-va, nầy, linh hồn tôi chẳng hề bị ô uế. Từ 
lúc c̣n nhỏ đến bây giờ, tôi chẳng hề ăn con vậy đă chết tự nhiên, hoặc bị thú 
vật xé; và chẳng có thịt gớm ghiếc nào đă vào trong miệng tôi.
15. Ngài đáp rằng: Ta cho phép ngươi lấy phân ḅ thay phân người; ngươi khá dùng 
nó mà hấp bánh.
16. Đoạn, Ngài lại phán: Hỡi con người, nầy, ta sẽ bẻ gậy bánh trong 
Giê-ru-sa-lem đi; chúng nó sẽ cân bánh mà ăn, và sợ hăi, lường nước mà uống, và 
sững sờ.
17. Thế th́ chúng nó thiếu bánh và nước, cùng nhau thất kinh, và hao ṃn trong 
tội lỗi ḿnh.
Ê-xê-chi-ên 5   
 chọn đoạn khác
1. Hỡi con người, c̣n như ngươi, hăy lấy một cái gươm bén như dao cạo râu, lấy 
mà đưa qua trên đầu và râu ngươi. Rồi dùng cân cân, và chia tóc.
2. Khi những ngày vây thành đă măn, ngươi hăy đốt nó một phần ba tại giữa thành; 
rồi lấy một phần ba khác, dùng gươm mà đánh nó tại chung quanh thành. Sau lai, 
hăy rắc tan một phần ba cuối cùng ra trước gió, chính ta sẽ tuốt gươm theo sau.
3. Trong những cái c̣n lại, ngươi khá lấy một ít mà buộc vào vạt áo choàng ḿnh;
4. c̣n những cái sau rốt, hăy lấy một vài cái quăng trong lửa và đốt cháy. Từ đó 
sẽ có lửa phát ra kịp đến cả nhà Y-sơ-ra-ên.
5. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ḱa là thành Giê-ru-sa-lem, ta đă đặt nó giữa 
các dân tộc, và các nước bao xung quanh nó.
6. Bởi nó bạn nghịch luật lệ ta, làm đều dữ hơn các dân tộc, trái phép tắc ta 
hơn các nước chung quanh; v́ chúng nó khinh bỏ luật lệ ta, và không bước theo 
phép tắc ta.
7. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tại các ngươi là rối loạn hơn các dân 
tộc chung quanh, không bước theo phép tắc ta, cũng không giu luật lệ ta; tại các 
ngươi cũng không làm theo luật lệ của các dân tộc chung quanh ḿnh,
8. v́ cớ đó Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta, chính ta nghịch cùng ngươi; và 
ta sẽ làm sự đoán phạt giữa ngươi cho các dân tộc đều thấy.
9. V́ cớ mọi sự gớm ghiếc của ngươi, ta sẽ làm giữa ngươi một sự mà trước kia ta 
chưa hề làm, sau nầy cũng không hề làm nữa.
10. Ở giữa ngươi, cha sẽ ăn thịt con, con sẽ ăn thịt cha. Ta sẽ làm sự đoán phạt 
nghịch cùng ngươi; và mọi kẻ sót lại của ngươi, ta sẽ làm cho nó tan lạc ra mọi 
gió.
11. Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, tại ngươi đă làm ô uế nơi thánh 
ta bởi những sự xấu hổ gớm ghiếc, nên ta cũng chắc sẽ xây mắt chẳng tiếc ngươi. 
Mắt ta sẽ không dè tiếc, ta sẽ không thương xót.
12. Một phần ba trong ngươi sẽ chết dịch, sẽ bị chơn đói kém làm tiêu ṃn ở giữa 
ngươi; một phần ba sẽ ngă dưới lưỡi gươm trong tứ vi ngươi; c̣n một phần ba nữa, 
ta sẽ làm tan lạc ra mọi gió, và lấy gươm đuổi theo nó.
13. Sự giận ta sẽ được trọn như vậy, và ta sẽ khiến cơn thạnh nộ ta thôi nghịch 
cùng chúng nó, ta sẽ được yên ủi; và khi ta làm trọn sự giận trên chúng nó rồi, 
th́ chúng nó sẽ biết rằng ấy chính ta, Đức Giê-hô-va, đă nói trong sự sốt sắng 
ta.
14. Vả lại, ta sẽ làm ngươi ra hoang vu và cớ nhuốc nha trong các nước chung 
quanh ngươi, và trước mắt kẻ đi qua.
15. Vậy khi ta sẽ nổi giận xét đoán ngươi, nhơn sự thạnh nộ trách phạt ngươi, 
ngươi sẽ bị nhuốc nha và chê bai, làm gương và gở lạ cho các nước chung quanh 
ngươi. Chính ta là Đức Giê-hô-va phán như vậy!
16. Ta sẽ bắn trên chúng nó những tên độc của sự đói kém làm cho chết, mà ta sẽ 
bắn để hủy diệt các ngươi; ta sẽ thêm sự đói kém trên các ngươi, và sẽ bẻ gậy 
bánh của các ngươi đi.
17. Ta sẽ giáng sự đói kém cho các ngươi, và sai thú dữ đến làm cho ngươi cô 
độc. Ôn dịch và sự đổ máu sẽ trải qua giữa ngươi; ta lại sẽ sai gươm xuống trên 
ngươi nữa. Chính ta là Đức Giê-hô-va đă phán vậy!
Ê-xê-chi-ên 6   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta như vầy:
2. Hỡi con người, hăy xây mặt về các núi của Y-sơ-ra-ên, và nói tiên tri nghịch 
cùng nó,
3. rằng: Hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hăy nghe lời của Chúa Giê-hô-va. Chúa 
Giê-hô-va phán cùng các núi, các đồi, hầm hố, và nơi trũng như vầy: Nầy, ta, 
chính ta sẽ giá gươm trên các ngươi, hủy hoại các nơi cao của các ngươi.
4. Bàn thờ các ngươi sẽ bị phá hoang, tượng mặt trời các ngươi sẽ bị bẻ găy; ta 
sẽ ném bỏ những kẻ bị giết của các ngươi trước mặt thần tượng các ngươi.
5. Ta sẽ đặt những xác chết con cái Y-sơ-ra-ên ra trước mặt thần tượng chúng nó, 
và rải hài cốt các ngươi khắp chung quanh bàn thờ các ngươi.
6. Hễ nơi nào các ngươi ở, th́ thành ấp sẽ bị hủy hoại, các nơi cao sẽ bị hoang 
vu, đến nỗi bàn thờ các ngươi bị hủy hoại hoang vu, thần tượng bị đập bể và 
không c̣n nữa, tượng mặt trời nát ra từng mảnh, và mọi công việc của các ngươi 
thành ra hư không.
7. Những kẻ bị giết sẽ ngă xuống giữa các ngươi, các ngươi sẽ biết rằng ta là 
Đức Giê-hô-va!
8. Dầu vậy, khi các ngươi bị tan lạc ra các nước, ta sẽ c̣n để dân sót lại, v́ 
giữa các nước sẽ có một vài người được thoát khỏi mũi gươm.
9. Những kẻ trong các ngươi được thoát ấy sẽ nhớ đến ta trong các nước mà chúng 
nó bị bắt đến, thể nào ta đă buồn rầu trong ḷng, v́ ḷng tà dâm của chúng nó đă 
ĺa bỏ ta, và mắt chúng nó hành dâm theo thần tượng ḿnh. Bấy giờ chúng nó tự 
oán hận ḿnh, v́ cớ mọi sự dữ chúng nó đă làm bởi những việc gớm ghiếc của ḿnh.
10. Chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, và lời ta đă nói giáng tai vạ cho 
chúng nó chẳng phải là lời hư không vậy.
11. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy vỗ tay giậm chơn mà rằng: Than ôi! v́ mọi 
sự dữ đáng gớm của nhà Y-sơ-ra-ên; v́ nó sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, và ôn 
dịch.
12. Kẻ nào xa sẽ chết bởi ôn dịch. Kẻ nào gần sẽ ngă dưới lưỡi gươm. Kẻ nào sống 
sót, là kẻ bị vây, sẽ chết bởi đói kém; đối với chúng nó, ta sẽ làm cho trọn sự 
giận của ta.
13. Khi những kẻ bị giết của chúng nó nằm giữa đám thần tượng xung quanh bàn 
thờ, trên mỗi g̣ cao, trên mọi đỉnh núi, dưới mọi cây xanh và cây dẽ rậm, khắp 
những nơi chúng nó dâng hương thơm ngào ngạt cho thần tượng ḿnh, bấy giờ các 
ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
14. Vậy ta sẽ giang tay nghịch cùng chúng nó, hễ nơi nào chúng nó ở, th́ ta sẽ 
làm cho đất đó ra hoang vu hủy phá, từ đồng vắng cho đến Đíp-lát. Thế th́ chúng 
nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 7   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán cùng đất Y-sơ-ra-ên như vầy: Sự cuối rốt 
đây nầy! Sự cuối rốt đă đến cho bốn góc đất!
3. Bây giờ, ấy là sự cuối rốt cho ngươi. Ta sẽ xổ cơn giận ta trên ngươi, theo 
đường lối ngươi mà đoán xét ngươi, và khiến đổ lại trên ngươi những sự gớm 
ghiếc.
4. Mắt ta chẳng đoái tiếc ngươi; ta chẳng thương xót ngươi; nhưng ta sẽ giáng 
đường lối ngươi trên ngươi, và những sự gớm ghiếc sẽ ở giữa ngươi. Các ngươi sẽ 
biết ta là Đức Giê-hô-va.
5. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Tai vạ, tai vạ có một: nầy, nó đến!
6. Kỳ cuối cùng đến, kỳ cuối cùng nầy đến; nó tỉnh thức mà nghịch cùng ngươi, 
ḱa, nó đến kia!
7. Hỡi dân trong đất, sự bại hoại định cho ngươi đă đến; kỳ đă đến, ngày gần 
rồi, là ngày có tiếng ồn ào, không c̣n tiếng reo mừng trên các núi.
8. Nay ta hầu kíp đổ sự thạnh nộ ta trên ngươi, và làm cho trọn sự giận ta 
nghịch cùng ngươi; ta sẽ đoán xét ngươi theo cách ngươi ăn ở, và khiến đổ lại 
trên ngươi những sự gớm ghiếc ngươi.
9. Mắt ta chẳng đoái tiếc ngươi, ta chẳng thương xót ngươi đâu. Ta sẽ tùy theo 
đường lối ngươi báo trả ngươi, sự gớm ghiếc ngươi sẽ ở giữa ngươi. Các ngươi sẽ 
biết rằng chính ta, Đức Giê-hô-va, là Đấng đánh phạt.
10. Nầy, ngày đây! Nầy, ngày đến! Sự bại hoại định cho ngươi đă đến; gậy đă trổ 
bông, sự kiêu căng đă nẩy nụ.
11. Sự cường bạo đă dấy lên làm gậy gian ác; chúng nó sẽ chẳng c̣n chi hết, 
chẳng c̣n ai của đám đông chúng nó, chẳng c̣n ǵ của sự giàu có chúng nó, chẳng 
c̣n sự sang trọng giữa họ nữa.
12. Kỳ đến, ngày gần tới! Kẻ mua chớ vui, kẻ bán chớ buồn; v́ có cơn giận trên 
cả đoàn dân nó.
13. V́ kẻ bán dầu c̣n sống, cũng không thể trở lại lấy của ḿnh đă bán; v́ sự 
hiện thấy chỉ về cả đoàn dân nó, sẽ chẳng ai trở lại; và chẳng ai sẽ nhờ sự gian 
ác đời ḿnh mà bổ sức lại.
14. Kèn đă thổi, mọi sự đều sẵn sàng rồi; nhưng chẳng ai ra trận, v́ cơn giận ta 
ở trên cả đoàn dân nó.
15. Ở ngoài th́ gươm dao, ở trong th́ ôn dịch và đói kém! Kẻ nào ở ngoài đồng sẽ 
chết bởi gươm dao; kẻ nào ở trong thành, th́ cơn đói kém và ôn dịch sẽ vồ nuốt 
lấy.
16. Song những người nào được trốn sẽ thoát khỏi, và sẽ ở trên núi như ḅ câu ở 
đồng trũng, mọi người trong chúng nó than văn, ai nấy v́ sự gian ác ḿnh.
17. Mọi tay đều ṃn mỏi, mọi đầu gối đều yếu như nước!
18. Chúng nó sẽ thắt lưng bằng bao gai, bị sự kinh khiếp bao bọc; mọi mặt đều hổ 
thẹn, mọi đầu đều trọc trọi.
19. Chúng nó sẽ quăng bạc ḿnh ra ngoài đường phố, vàng chúng nó sẽ ra như đồ ô 
uế; hoặc vàng, hoặc bạc, cũng không thể cứu chúng nó nơi ngày cơn giận của Đức 
Giê-hô-va; không thể làm cho chúng nó đầy ruột, v́ ấy là đồ làm cho chúng nó sa 
vào tội lỗi!
20. Những đồ trang sức chúng nó đă làm cớ kiêu ngạo cho ḿnh; chúng nó dùng đồ 
ấy mà làm h́nh tượng gớm ghiếc và đồ đáng ghét. Vậy nên, ta đă làm cho đồ ấy ra 
như sự ô uế cho chúng nó!
21. Ta sẽ phó những đồ ấy làm mồi cho tay dân ngoại, làm của cướp cho kẻ dữ 
trong thế gian; chúng nó sẽ làm ô uế nó.
22. Ta sẽ xây mặt khỏi chúng nó, người ta sẽ làm dơ nhớp nơi cấm của ta; những 
kẻ trộm cướp sẽ vào đó và làm ô uế.
23. Khá sắm sửa xiềng xích! V́ trong đất đầy những tội làm đổ máu, và trong 
thành đầy những sự tàn bạo.
24. Ta sẽ đem những kẻ rất hung ác trong các dân ngoại đến để choán lấy nhà 
chúng nó; ta sẽ làm cho sự kiêu ngạo của kẻ mạnh tắt đi; các nơi thánh của nó sự 
bị ô uế.
25. Sự hủy diệt đến! Chúng nó sẽ t́m sự b́nh an, nhưng t́m không được.
26. Tai vạ chồng trên tai vạ, tin dữ kế lấy tin dữ. Chúng nó sẽ t́m sự hiện thấy 
nơi kẻ tiên tri; nhưng luật pháp ĺa khỏi thầy tế lễ, trí mưu ĺa khỏi các 
trưởng lăo.
27. Vua sẽ thương khóc, quan trưởng sẽ mặc lấy sự năo, tay của dân trong đất đều 
run rẩy. Ta sẽ đăi chúng nó theo cách chúng nó ăn ở; chúng nó đáng thể nào th́ 
ta xét đoán cho thể ấy, chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 8   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ sáu, ngày mồng năm tháng sáu, khi ta đương ngồi trong nhà, và các 
trưởng lăo Giu-đa ngồi trước mặt ta, th́ tay Chúa Giê-hô-va giáng trên ta.
2. Bấy giờ ta thấy, và nầy, có h́nh giống như h́nh trạng lửa. Từ h́nh trạng 
ngang lưng người ấy trở xuống, th́ là lửa; c̣n từ lưng trở lên, th́ như h́nh 
trạng sáng chói, tựa đồng bóng nhoáng.
3. Người ấy giơ ra như h́nh cái tay, nắm lấy một lọn tóc trên đầu ta. Thần cất 
ta lên giữa quăng đất và trời, trong sự hiện thấy của Đức Chúa Trời đem ta đến 
thành Giê-ru-sa-lem, nơi cửa vào sân trong, về phía bắc, là nơi có chỗ ngồi của 
h́nh tượng sự ghen tương làm cho nổi ghen.
4. Nầy, tại đó có sự vinh hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên, như ta đă xem trong 
sự hiện thấy tại đồng bằng.
5. Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hăy ngước mắt về phía bắc. Vậy ta 
ngước mắt về phía bắc, và nầy, nơi phía bắc cửa bàn thờ, chỗ lối vào, có h́nh 
tượng của sự ghen tương.
6. Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hỡi con người, ngươi có thấy sự những kẻ nầy làm, 
tức là những sự gớm ghiếc lớn mà nhà Y-sơ-ra-ên đă phạm tại đây, đặng làm cho ta 
xa nơi thánh ta chăng? Song ngươi sẽ c̣n thấy sự gớm ghiếc lớn khác nữa!
7. Đoạn, Ngài dắt ta đến cửa hành lang; ta nh́n xem, thấy một lỗ trong vách.
8. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hăy xoi vách đi. Khi ta xoi vách xong, 
th́ thấy có một cái cửa.
9. Ngài lại phán: Hăy vào xem những sự gian ác đáng gớm mà chúng nó làm ra ở 
đây.
10. Vậy ta vào, xem thấy; và nầy, có mọi thứ h́nh tượng côn trùng và thú vật gớm 
ghiếc, mọi thần tượng của nhà Y-sơ-ra-ên đă vẽ trên chung quanh tường.
11. Trước mặt các thần tượng ấy đứng bảy mươi trưởng lăo của nhà Y-sơ-ra-ên, 
giữa đám họ có Gia-a-xa-nia, con trai Sa-phan, mỗi người tay cầm lư hương, khói 
thơm bay lên như ngút.
12. Ngài bèn phán: Hỡi con người, ngươi có thấy sự các trưởng lăo nhà Y-sơ-ra-ên 
mỗi người làm trong nơi tối tăm, trong pḥng vẽ h́nh tượng của ḿnh không? V́ 
chúng nó nói rằng: Đức Giê-hô-va không thấy chúng ta đâu; Đức Giê-hô-va đă ĺa 
bỏ đất nầy!
13. Ngài lại phán rằng: Ngươi sẽ c̣n thấy những sự gớm ghiếc lớn khác nữa mà 
chúng nó làm!
14. Ngài dẫn ta đến lối cửa nhà Đức Giê-hô-va, cửa ấy về phía bắc; nầy, tại đó 
ta thấy những đờn bà ngồi mà khác Tham-mu.
15. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, thấy chưa? Ngươi sẽ c̣n thấy những sự 
gớm ghiếc lớn hơn nữa!
16. Kế đó, Ngài đem ta vào hành lang trong của nhà Đức Giê-hô-va; nầy, nơi lối 
vào đền thờ Đức Giê-hô-va, giữa hiên cửa và bàn thờ, ta thấy có ước chừng hai 
mươi lăm người sấp lưng về phía đền thờ Đức Giê-hô-va và xây mặt về phía đông, 
hướng về phương đông mà thờ lạy mặt trời.
17. Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hỡi con người, thấy chưa? Nhà Giu-đa phạm những 
sự gớm ghiếc mà nó phạm ở đây, há là sự nhỏ mọn sao? v́ nó làm cho tội ác ḿnh 
đầy dẫy trong đất; và c̣n xây lại chọc giận ta. Nầy, chúng nó lấy nhánh cây để 
gần mũi ḿnh!
18. Vậy nên ta cũng sẽ làm y theo cơn giận; mắt ta chẳng đoái tiếc chúng nó, và 
ta không thương xót đâu. Dầu chúng nó kêu la om ṣm vang đến tai ta, ta chẳng 
thèm nghe chúng nó.
Ê-xê-chi-ên 9   
 chọn đoạn khác
1. Ngài kêu lớn tiếng trong lỗ tai ta rằng: Khá khiến những kẻ cai trị thành nầy 
hăy đến gần, ai nấy khá cầm khí giới hủy diệt trong tay ḿnh.
2. Và nầy, có sáu người từ cửa trên về phía bắc mà đến, mỗi người cầm khí giới 
giết lát trong tay. Giữa bọn họ có một người mặc vải gai, lưng đeo sừng mực. Sáu 
người bước vào, đứng bên bàn thờ bằng đồng.
3. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên bèn dấy lên khỏi chê-ru-bin, là nơi 
thường ngự, mà đến ngạch cửa nhà; Đức Giê-hô-va gọi người mặc vải gai, lưng đeo 
sừng mực
4. mà phán rằng: Hăy trải qua giữa thành tức giữa Giê-ru-sa-lem, ghi dấu trên 
trán những người nào than thở khóc lóc về mọi sự gớm ghiếc đă phạm giữa thành 
nầy.
5. Rồi Ngài phán cùng những người kia cách như cho tôi nghe rằng: Hăy qua trong 
thành đằng sau nó, và đánh; mắt ngươi chớ đoái tiếc, và đừng thương xót.
6. Nào già cả, nào trai trẻ, nào gái đồng trinh, nào con nít, đờn bà, hăy giết 
hết; nhưng chớ lại gần một kẻ nào là kẻ đă có ghi dấu; và khá bắt đầu từ các 
người già cả ở trước mặt nhà.
7. Ngài lại phán cùng họ rằng: Hăy làm ô uế nhà, làm cho xác chết đầy dẫy các 
hành lang! Hăy ra! Họ bèn ra và đánh trong thành.
8. Trong khi họ đánh, th́ ta ở lại một ḿnh. Ta bèn ngă sấp mặt xuống và kêu lên 
rằng: ôi! hăy Chúa Giê-hô-va, Chúa hầu đổ cơn giận trên thành Giê-ru-sa-lem mà 
diệt hết thảy dân sót của Y-sơ-ra-ên, hay sao?
9. Ngài phán rằng: Sự gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên và của Giu-đa lớn quá lắm thay; 
đất đầy những máu, trong thành đầy sự trái phép; v́ chúng nó nói rằng: Đức 
Giê-hô-va đă ĺa bỏ đất nầy, Đức Giê-hô-va chẳng thấy chi hết.
10. Về phần ta, mắt ta cũng chẳng đoái tiếc chúng nó, và ta không thương xót; ta 
sẽ làm cho đường lối chúng nó đổ lại trên đầu chúng nó.
11. Nầy, người mặc vải gai, lưng đeo sừng mực, đến tŕnh việc rằng: Tôi đă làm y 
như lời Ngài truyền.
Ê-xê-chi-ên 10   
 chọn đoạn khác
1. Ta nh́n xem, nầy, trên ṿng khung giang ra trên đầu các chê-ru-bin có vật ǵ 
như là đá bích ngọc, h́nh trạng như h́nh cái ngai.
2. Ngài bèn phán cùng người mặc vải gai rằng: Hăy vào trong các khoảng bánh xe 
quay chóng ở dưới chê-ru-bin; khá từ giữa các chê-ru-bin lấy những than lửa đó 
bỏ đầy cả hay tay ngươi, rồi rải ra trên thành nầy. Người ấy vào nơi đó trước 
mặt ta.
3. Khi người vào, th́ các chê-ru-bin đứng bên hữu nhà; mây đầy hành lang trong.
4. Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va bèn dấy lên từ chê-ru-bin, đứng nơi ngạch cửa 
nhà; nhà đầy mây, và hành lang đầy sự chói sáng của vinh quang Đức Giê-hô-va.
5. Tiếng của những cánh chê-ru-bin vang ra đến hành lang ngoài, giống như tiếng 
của Đức Chúa Trời Toàn năng, khi Ngài phán.
6. Khi Đức Giê-hô-va đă truyền lịnh cho người mặc vải gai rằng: Hăy lấy lửa từ 
giữa khoảng các bánh xe quay chóng, giữa các chê-ru-bin, th́ người vào và đứng 
bên một bánh xe.
7. Rồi một chê-ru-bin từ giữa các chê-ru-bin giơ tay ra đến lửa giữa các 
chê-ru-bin, và lấy lửa đem đặt vào tay người mặc vải gai; người nầy tiếp lấy rồi 
th́ ra.
8. Vả, nơi dưới cánh các chê-ru-bin có tỏ ra h́nh một cái tay người.
9. Ta c̣n nh́n xem, nầy, có bốn bánh xe kề bên các chê-ru-bin, và một bánh xe 
khác kề một chê-ru-bin khác; h́nh trạng những bánh xe ấy giống như bích ngọc.
10. Theo như h́nh trạng các bánh xe ấy, bốn cái có đồng một h́nh như một bánh xe 
ở trong bánh xe.
11. Khi chúng nó đi tới, đều đi bốn phía ḿnh, khi đi chẳng xây lại; tùy theo 
cái đầu hướng về bên nào, th́ chúng nó đi theo; khi đi chẳng xây lại.
12. Cả ḿnh các chê-ru-bin, lưng, tay, cánh, bánh xe, khắp chung quanh đều đầy 
những mắt, tức các bánh xe mà bốn chê-ru-bin ấy có.
13. Bấy giờ ta nghe gọi bánh xe ấy là bánh xe quay chóng.
14. Mỗi chê-ru-bin có bốn mặt: thứ nhứt là mặt chê-ru-bin; thứ nh́, mặt người; 
thứ ba, mặt sư tử; thứ tư, mặt chim ưng.
15. Đoạn, các chê-ru-bin dấy lên: ấy là vật sống mà ta thấy trên bờ sông Kê-ba.
16. Khi các chê-ru-bin đi, th́ các bánh xe đi kề chúng nó; khi các chê-ru-bin sè 
cánh để dấy lên khỏi đất, th́ các bánh xe không quay khỏi bên chúng nó.
17. Khi các chê-ru-bin dừng lại, các bánh xe cùng dừng lại; khi dấy lên, cùng 
dấy lên; v́ thần của vật sống ấy ở trong các bánh xe vậy.
18. Sự vinh hiển Đức Giê-hô-va ra khỏi ngạch cửa nhà, và đứng trên các 
chê-ru-bin.
19. Các chê-ru-bin sè cánh dấy lên khỏi đất, mà ra trước mắt ta, và các bánh xe 
ở kề nó; chúng nó dừng nơi lối vào cửa đông nhà Đức Giê-hô-va, và sự vinh hiển 
của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên ở trên chúng nó.
20. Ấy đó là vật sống mà ta thấy dưới Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên bờ sông 
Kê-ba, và ta biết nó là chê-ru-bin.
21. Mỗi chê-ru-bin có bốn mặt và bốn cánh; dưới cánh có h́nh như tay người.
22. Về phần h́nh trạng của các mặt nó, ấy là những mặt mà ta thấy trên bờ sông 
Kê-ba, cả h́nh trạng và chính ḿnh chúng nó; và chúng nó đều đi thẳng tới trước.
Ê-xê-chi-ên 11   
 chọn đoạn khác
1. Vả lại, Thần cất ta lên và đem đến cửa đông nhà Đức Giê-hô-va, là cửa ở về 
phía đông. Nầy, nơi lối vào cửa có hai mươi lăm người; giữa bọn đó, ta thấy có 
Gia-a-xa-nia con trai A-xua, và Phê-la-tia con trai Bê-na-gia, đều là quan 
trưởng của dân.
2. Ngài phán cùng ta rằng: hăy con người, đó là những người toan tính sự gian 
ác, bày đặt mưu gian trong thành nầy.
3. Chúng nó nói rằng: Hiện nay chưa gần kỳ xây nhà! Thành nầy là nồi, chúng ta 
là thịt.
4. Vậy nên, hăy nói tiên tri nghịch cùng chúng nó, hỡi con người hăy nói tiên 
tri đi!
5. Thần của Đức Giê-hô-va bèn đổ trên ta, và phán rằng: Hăy nói đi! Đức 
Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! các ngươi đă nói làm vậy; v́ ta biết 
những sự nghĩ trong trí các ngươi.
6. Các ngươi đă giết rất nhiều người trong thành nầy, và làm đầy xác chết trong 
các đường phố nó.
7. Cho nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Những kẻ bị giết mà các ngươi đă để ở 
giữa thành, ấy là thịt, mà thành là nồi; c̣n các ngươi sẽ bị đem ra khỏi giữa 
nó.
8. Các ngươi sợ gươm dao; ta sẽ khiến gươm dao đến trên các ngươi, Chúa 
Giê-hô-va phán vậy.
9. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa thành nầy, sẽ phó các ngươi trong tay dân 
ngoại, và làm sự đoán phạt giữa các ngươi.
10. Các ngươi sẽ ngă bởi gươm; ta sẽ đoán xét các ngươi trong bờ cơi Y-sơ-ra-ên, 
các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
11. Thành nầy sẽ chẳng làm nồi cho các ngươi, các ngươi sẽ chẳng làm thịt giữa 
nó; ta sẽ đoán xét các ngươi trong bờ cơi Y-sơ-ra-ên.
12. Bấy giờ các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, v́ các ngươi đă không bước 
theo lề luật ta, không giữ theo mạng lịnh ta; nhưng đă làm theo mạng lịnh các 
nước chung quanh ḿnh.
13. Vả, trong khi ta nói tiên tri, th́ Phê-la-tia, con trai Bê-na-gia, chết. Ta 
bèn ngă sấp mặt xuống và kêu lớn tiếng rằng: Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, Ngài hầu 
diệt hết dân sót của Y-sơ-ra-ên hay sao?
14. Có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta rằng:
15. Hỡi con người, dân cư thành Giê-ru-sa-lem đă nói cùng anh em ngươi, chính 
anh em ngươi, là những kẻ bà con ngươi, và cả nhà Y-sơ-ra-ên, hết cả mọi người, 
rằng: Hỡi ĺa xa Đức Giê-hô-va; đất nầy đă được ban cho chúng ta làm cơ nghiệp.
16. Vậy nên, khá nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Phải, ta đă dời 
chúng nó nơi xa trong các dân tộc, đă làm tan tác chúng nó trong nhiều nước, ta 
c̣n sẽ tạm là nơi thánh cho chúng nó trong các nước chúng nó đi đến.
17. Vậy nên, hăy nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ nhóm các ngươi lại 
từ giữa các dân, sẽ thâu các ngươi đă bị tan tác, và ta sẽ ban đất Y-sơ-ra-ên 
cho các ngươi.
18. Chúng nó sẽ đến đó, và sẽ trừ bỏ mọi vật đáng ghét và mọi sự gớm ghiếc của 
nó khỏi đó.
19. Ta sẽ ban cho chúng nó một ḷng đồng nhau, phú thần mới trong các ngươi; bỏ 
ḷng đá khỏi xác thịt chúng nó, và sẽ cho chúng nó ḷng thịt;
20. để chúng nó noi theo lề luật ta, giữ và làm theo mạng lịnh ta. Chúng nó sẽ 
làm dân ta, và ta làm Đức Chúa Trời chúng nó.
21. Nhưng, những kẻ để ḷng bước theo sự ham mê của vật đáng ghét và những sự 
gớm ghiếc, th́ ta sẽ làm cho đường lối chúng nó đổ lại trên đầu chúng nó, Chúa 
Giê-hô-va phán vậy.
22. Bấy giờ, các chê-ru-bin sè cánh lên, và có các bánh xe ở bên nó; sự vinh 
hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên cũng ở trên chúng nó.
23. Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dấy lên từ giữa thành, và đứng trên núi phía 
đông thành.
24. Thần cất ta lên, và trong sự hiện thấy ta bị Thần của Đức Chúa Trời đem đi 
trong Canh-đê, đến nơi những kẻ phu tù; sự hiện thấy đă hiện ra cho ta bèn lên 
khỏi ta.
25. Bấy giờ ta thuật lại cho những kẻ phu tù mọi sự mà Đức Giê-hô-va đă tỏ cho 
ta biết.
Ê-xê-chi-ên 12   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va lại phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, ngươi ở giữa nhà bạn nghịch, chúng nó có mắt để thấy mà không 
thấy, có tai để nghe mà không nghe; v́ ấy là nhà bạn nghịch.
3. Vậy, hỡi con người, ngươi khá sửa soạn đồ vật dời đi, và dời đi giữa ban ngày 
cho chúng nó xem. Trước mắt chúng nó hăy từ nơi ngươi ở mà dời đi chỗ khác; 
chúng nó dầu là nhà bạn nghịch có lẽ sẽ nghĩ lại chăng.
4. Ngươi khá đem đồ vật ḿnh như đồ vật của kẻ dời đi, giữa ban ngày, trước mắt 
chúng nó; chính ḿnh ngươi đi về buổi chiều, trước mắt chúng nó, như kẻ đi đày.
5. Cũng ở trước mắt chúng nó, ngươi khá xoi một cái lỗ qua tường, rồi từ lỗ đó 
đem đồ vật ra.
6. Trước mắt chúng nó, ngươi để đồ vật lên vai, và đem đi lúc trời tối. Ngươi 
khá che mặt, đặng không thấy đất nầy; v́ ta đă đặt ngươi làm một dấu cho nhà 
Y-sơ-ra-ên.
7. Ta làm theo lời Chúa đă phán dặn: mang đồ vật đi giữa ban ngày như đồ vật kẻ 
dời đi, đến chiều ta lấy chính tay ḿnh mà xoi tường. Ta đem đồ vật đi trong lúc 
tối, và vác trên vai ta trước mắt chúng nó.
8. Sớm mai có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
9. Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên, là nhà bạn nghịch ấy, há chẳng từng hỏi ngươi 
rằng: Ngươi làm ǵ?
10. Hăy trả lời cho chúng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Gánh nặng nầy chỉ 
về vua trong Giê-ru-sa-lem, cùng cả nhà Y-sơ-ra-ên ở trong đó.
11. Ngươi khá nói rằng: Ta là điềm cho các ngươi. Chúng nó sẽ gặp điều như ta đă 
làm; sẽ đi đày, sẽ đi làm phu tù.
12. Vua giữa chúng nó sẽ vác trên vai ḿnh mà đi ra trong lúc tối. Chúng nó sẽ 
đục lỗ qua tường để mang đồ ra; người sẽ che mặt, v́ mắt người sẽ không thấy đất 
nầy.
13. Ta cũng sẽ giăng lưới ta trên người, người sẽ mắc vào bẫy ta; và ta sẽ đem 
người qua Ba-by-lôn, là đất của người Canh-đê. Nhưng người sẽ thấy đất ấy, dầu 
chết tại đó.
14. Những kẻ ở xung quanh người để giúp người, và các đạo binh người, th́ ta sẽ 
làm cho tan ra mọi gió, và ta sẽ tuốt gươm mà đuổi theo.
15. Khi ta làm tan tác chúng nó trong các dân tộc và rải ra trong các nước, 
chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
16. Dầu vậy, ta sẽ chừa lại một số ít trong chúng nó thoát khỏi gươm dao, đói 
kém, ôn dịch; đặng chúng nó có thể thuật lại mọi sự gớm ghiếc của ḿnh trong các 
dân mà chúng nó sẽ đến ở; và chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
17. Đoạn, có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta như vầy:
18. Hỡi con người, ngươi khá ăn bánh trong sự kinh khủng, uống nước với sự run 
rẩy và sợ hăi.
19. Ngươi khá nói cùng dân trong đất rằng: Nầy là điều mà Chúa Giê-hô-va phán về 
dân cư Giê-ru-sa-lem, về đất của Y-sơ-ra-ên: Chúng nó sẽ ăn bánh trong sự sợ 
hăi, và uống nước trong sự kinh khủng, đặng đất nầy bị hoang vu, mất hết của 
cải, bởi cớ sự cường bạo của cả dân cư đó.
20. Các thành đông dân sẽ trở nên g̣ đống, đất sẽ bị hoang vu; và các ngươi sẽ 
biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
21. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta rằng:
22. Hỡi con người, các ngươi có một lời tục ngữ trong đất của Y-sơ-ra-ên, rằng: 
Những ngày kéo dài, mọi sự hiện thấy chẳng ứng nghiệm! lời ấy nghĩa là ǵ?
23. Ấy vậy, hăy nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ làm 
cho lời tục ngữ ấy dứt đi, không ai dùng nó làm tục ngữ nữa trong Y-sơ-ra-ên. 
Song khá nói cùng chúng nó rằng: Những ngày gần đến, mọi sự hiện thấy hầu ứng 
nghiệm.
24. Thật, sẽ chẳng c̣n có một sự hiện thấy nào là giả dối, hoặc một sự bói khoa 
nào là a dua trong nhà Y-sơ-ra-ên.
25. V́ ta là Đức Giê-hô-va, ta sẽ nói, và lời ta nói sẽ làm thành, không hoăn 
lại nữa. Hỡi nhà bạn nghịch! Ấy là đương ngày các ngươi mà ta sẽ rao lời tiên 
tri và sẽ làm thành, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
26. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta như vầy:
27. Hỡi con người, nầy, nhà Y-sơ-ra-ên có kẻ nói rằng: Sự hiện thấy của người 
nầy thấy là chỉ về lâu ngày về sau, và người nói tiên tri về thời c̣n xa.
28. Vậy nên, hăy nói cùng chúng nó: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chẳng có lời 
nào của ta sẽ hoăn lại nữa, song lời ta nói sẽ làm thành, Chúa Giê-hô-va phán 
vậy.
Ê-xê-chi-ên 13   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta như vầy:
2. Hỡi con người, hăy nói tiên tri nghịch cùng các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, là 
những kẻ đương nói tiên tri, và hăy bảo cho những kẻ nói tiên tri bởi ḷng riêng 
ḿnh rằng: Hăy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
3. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những tiên tri dại dột, theo thần riêng 
minh, mà chưa từng thấy ǵ cả.
4. Hỡi Y-sơ-ra-ên, các tiên tri ngươi cũng như những con cáo trong chốn hoang 
vu!
5. Các ngươi chưa lên nơi phá tan, và không xây tường cho nhà Y-sơ-ra-ên, đặng 
đứng vững trong cơn chiến trận nơi ngày Đức Giê-hô-va.
6. Chúng nó đă thấy sự phỉnh phờ, và sự bói khoa giả dối. Chúng nó nói rằng: Đức 
Giê-hô-va phán, (song Đức Giê-hô-va đă không sai chúng nó), và chúng nó khiến 
người ta mong cho lời ḿnh được ứng nghiệm.
7. Khi ta chưa từng phán, mà các ngươi nói rằng: Đức Giê-hô-va có phán, vậy các 
ngươi há chẳng thấy sự hiện thấy phỉnh phờ và nói sự bói khoa giả dối, hay sao?
8. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va có phán như vầy: V́ các ngươi nói những lời giả dối, 
thấy những sự phỉnh phờ, nầy, ta nghịch cùng các ngươi, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
9. Tay ta sẽ nghịch cùng những tiên tri thấy sự hiện thấy phỉnh phờ, bói những 
sự giả dối. Chúng nó sẽ không dự vào hội bàn dân ta nữa, không được ghi vào sổ 
nhà Y-sơ-ra-ên nữa, và không vào trong đất của Y-sơ-ra-ên; các ngươi sẽ biết ta 
là Chúa Giê-hô-va.
10. Thật vậy, bởi chúng nó lừa dối dân ta mà rằng: B́nh an; mà chẳng có b́nh an 
chi hết. Khi có ai xây tường, nầy, chúng nó trét vôi chưa sùi bọt lên!
11. Hăy nói cùng những kẻ trét vôi chưa sùi bọt rằng tường ấy sẽ xiêu đổ. Mưa to 
sẽ xảy đến. Hỡi mưa đá lớn, bay sẽ sa xuống; và gió băo sẽ xé rách nó.
12. Nầy, khi tường sụp xuống, người ta há chẳng nói cùng các ngươi rằng: Chớ nào 
vội mà các ngươi đă trét trên tường ở đâu?
13. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ nhơn giận khiến gió băo xé rách 
nó; ta sẽ nhơn cơn thạnh nộ sai mưa dầm đến, và nhơn sự tức giận sai mưa đá lớn 
phá diệt nó.
14. Cũng vậy, ta sẽ dỡ cái tường mà các ngươi đă trét vôi chưa sùi bọt, xô nó 
suốt đất, đến nỗi chơn nền bày ra. Tường sẽ đổ, các ngươi sẽ bị diệt giữa nó, và 
biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
15. Ta sẽ làm trọn cơn giận nghịch cùng tường và kẻ trét vôi chưa sùi bọt như 
vầy: và ta sẽ nói cùng các ngươi rằng: Tường chẳng c̣n nữa, kẻ trét vôi cũng 
vậy;
16. tức là các tiên tri của Y-sơ-ra-ên nói tiên tri về Giê-ru-sa-lem, xem sự 
hiện thấy b́nh an cho thành ấy, mà không có b́nh an, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
17. Hỡi con người, ngươi khá xây mặt nghịch cùng các con gái của dân ngươi, là 
những kẻ nói tiên tri bởi ḷng riêng ḿnh; và ngươi khá nói tiên tri nghịch cùng 
chúng nó.
18. Bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho những đờn bà v́ mọi 
cùi tay may gối, và y theo tầm thước mà làm khăn cho đầu, để săn linh hồn. Ủa, 
ḱa! các ngươi muốn săn linh hồn dân ta, và giữ linh hồn nó để làm lợi cho ḿnh 
hay sao?
19. Các ngươi v́ mấy nhắm mạch nha, mấy miếng bánh mà làm nhục ta giữa dân ta, 
các ngươi nói dối dân ta, là kẻ nghe lời dối trá các ngươi, để mà giết những kẻ 
không đáng chết, cho sống những kẻ không đáng sống.
20. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta ghét những cái gối của các 
ngươi, v́ bởi đó các ngươi săn linh hồn như đánh bẫy chim; ta sẽ xé ra khỏi cánh 
tay các ngươi, và thả linh hồn mà các ngươi đă săn, như chim bay đi.
21. Ta cũng sẽ xé khăn các ngươi, cứu dân ta ra khỏi tay các ngươi, chúng nó sẽ 
không ở trong tay các ngươi để bị săn nữa; bấy giờ các ngươi sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va.
22. V́ các ngươi lấy sự dối trá làm buồn ḷng kẻ công b́nh mà ta chưa từng làm 
cho lo phiền, và các ngươi làm mạnh tay kẻ dữ đặng nó không xây bỏ đường xấu 
ḿnh để được sống,
23. v́ cớ đó, các ngươi sẽ không thấy sự hiện thấy thỉnh phờ, và không bói khoa 
nữa. Ta sẽ cứu dân ta thoát khỏi tay các ngươi, và các ngươi sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 14   
 chọn đoạn khác
1. Một vài trưởng lăo kia của Y-sơ-ra-ên đến cùng ta, ngồi trước mặt ta.
2. Bấy giờ có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta như vầy:
3. Hỡi con người, những kẻ nầy mang thần tượng ḿnh vào trong ḷng, và đặt rồi 
mặt ḿnh sự gian ác ḿnh làm cho vấp phạm; vậy ta há để cho chúng nó cầu hỏi ta 
một chút nào sao?
4. Cho nên, hăy nói cùng chúng nó mà bảo rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hễ 
người nào trong nhà Y-sơ-ra-ên mang thần tượng ḿnh vào ḷng, và đặt trước mặt 
ḿnh sự gian ác ḿnh làm cho vấp phạm, nầy người ấy đến cùng kẻ tiên tri, th́ 
ta, Đức Giê-hô-va, chính ta sẽ trả lời cho nó y như thần tượng đông nhiều của 
nó,
5. hầu cho ta bắt được nhà Y-sơ-ra-ên trong chính ḷng nó, v́ chúng nó nhơn thần 
tượng ḿnh mà xa lạ ta.
6. Vậy nên, hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy 
trở lại, xây bỏ thần tượng các ngươi, xây mặt khỏi mọi sự gớm ghiếc của các 
ngươi.
7. Thật vậy, hết thảy những người nhà Y-sơ-ra-ên, hết thảy khách lạ trú ngụ 
trong Y-sơ-ra-ên, hệ ai ĺa xa ta, mà mang thần tượng ḿnh vào ḷng, và đặt 
trước mặt ḿnh sự gian ác ḿnh làm cho vấp phạm, đến cùng kẻ tiên tri để v́ 
chính ḿnh cầu hỏi ta, th́ chính ta, Đức Giê-hô-va, sẽ trả lời cho nó.
8. Ta sẽ sấp mặt lại nghịch cùng người ấy, khiến nó nên gở lạ, dấu, và tục ngữ, 
và dứt nó khỏi giữa dân ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
9. Nếu kẻ tiên tri bị dỗ mà nói lời nào, ấy chính ta, Đức Giê-hô-va, đă để tiên 
tri đó bị dỗ, và ta sẽ giá tay trên nó, diệt nó khỏi giữa dân Y-sơ-ra-ên của ta.
10. Cả hai sẽ đều chịu tội ḿnh: tội của kẻ tiên tri sẽ giống như tội của kẻ cầu 
hỏi,
11. để cho nhà Y-sơ-ra-ên chẳng c̣n lầm lạc xa ta nữa, và chẳng làm ô uế ḿnh 
nữa bởi mọi sự phạm phép của nó; nhưng đặng chúng nó được làm dân ta, và ta làm 
Đức Chúa Trời chúng nó, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
12. Đoạn, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
13. Hỡi con người, nếu đất nào làm sự trái phép mà phạm tội nghịch cùng ta, và 
nếu ta giá tay trên nó, bẻ gậy bánh của nó, giáng cho sự đói kém, và diệt hết 
người và vật trong nó,
14. th́ dẫu trong đất đó có ba người nầy, là Nô-ê, Đa-ni-ên, và Gióp, cũng chỉ 
cứu được linh hồn ḿnh bởi sự công b́nh ḿnh, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15. Nếu ta khiến các thú dữ trải qua trong đất, làm cho hủy hoại, trở nên hoang 
vu, đến nỗi chẳng ai đi qua nữa v́ cớ các thú ấy,
16. th́ dẫu trong đất có ba người đó, Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng 
sống, họ cũng chẳng cứu được con trai con gái; chỉ một ḿnh họ được cứu, nhưng 
đất sẽ hoang vu.
17. Hay là, nếu ta sai gươm dao đến trên đất đó, mà rằng: Gươm dao hăy trải qua 
đất, đến nỗi ta diệt người và vật nó,
18. th́ dẫu trong đất có ba người đó, Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta hằng 
sống, họ cũng chẳng cứu được con trai con gái, nhưng chỉ một ḿnh họ được cứu.
19. Hay là, nếu ta sai ôn dịch đến trong đất đó, nếu ta đổ cơn giận mà làm chảy 
máu nó đặng diệt hết người và vật khỏi nó,
20. th́ dẫu có Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp ở đó, Chúa Giê-hô-va phán, thật như ta 
hằng sống, họ cũng chẳng cứu được nào con trai nào con gái, chỉ một ḿnh họ cứu 
được linh hồn ḿnh bởi sự công b́nh ḿnh thôi.
21. Vậy, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta lấy bốn sự đoán phạt nặng nề, tức là 
gươm dao, đói kém, thú dự, và ôn dịch mà giáng cho Giê-ru-sa-lem, đặng hủy diệt 
khỏi nó người và thú vật, sự đó quá hơn là dường nào!
22. Dầu vậy, nầy, trong đó c̣n có kẻ sót lại, cả con trai con gái sẽ bị đem ra: 
nầy, chúng nó sẽ đi ra đến cùng các ngươi; các ngươi sẽ thấy đường lối và việc 
làm của chúng nó, th́ sẽ tự yên ủi ḿnh về tai vạ ta đă giáng trên 
Giê-ru-sa-lem, tức về mọi sự ta đă giáng trên nó.
23. Phải, khi các ngươi thấy đường lối và việc làm chúng nó, th́ chúng nó sẽ yên 
ủi các ngươi; và các ngươi sẽ biết mọi sự ta đă làm trong nó, th́ ta chẳng làm 
vô cớ, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 15   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, cây nho ở trong các cây khác, và nhánh nho ở trong cây rừng, 
th́ có ǵ hơn không?
3. Người ta có thể lấy gỗ bởi nó để làm việc ǵ? Có dùng làm đinh để treo vật ǵ 
được chăng?
4. Nầy, nó bị ném vào lửa để làm củi, khi lửa đă thiêu hai đầu, và khúc giữa 
cũng cháy, th́ c̣n dùng được việc ǵ?
5. Nầy, khi nó c̣n nguyên, chẳng dùng làm ǵ được; huống nữa là, khi lửa đă 
thiêu nuốt và nó đă bị đốt cháy, th́ c̣n dùng làm tṛ chi được ư!
6. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán Việt Nam: Như cây nho trong các cây rừng mà ta 
lấy làm củi, ném vào trong lửa, th́ ta cũng sẽ phó dân cư Giê-ru-sa-lem như vầy.
7. Ta sẽ để mặt ta nghịch cùng chúng nó. Chúng nó sẽ ra khỏi lửa, nhưng lửa sẽ 
thiêu đốt chúng nó đi; và khi ta để mặt nghịch cùng chúng nó, các ngươi sẽ biết 
ta là Đức Giê-hô-va.
8. Ta sẽ làm đất nầy ra hoang vu, v́ chúng nó đă phạm tội, Chúa Giê-hô-va phán 
vậy.
Ê-xê-chi-ên 16   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
2. Hỡi con người, hăy làm cho Giê-ru-sa-lem biết những sự gớm ghiếc của nó.
3. Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán cùng Giê-ru-sa-lem như vầy: Bởi cội 
rễ và sự sanh ra của mầy ở đất Ca-na-an; cha mầy là người A-mô-rít, mẹ là người 
Hê-tít.
4. Về sự mầy sanh ra, trong ngày mầy mới đẻ, rún mầy chưa cắt, chưa rửa mầy 
trong nước cho được thanh sạch, chưa xát bằng muối, chưa bọc bằng khăn.
5. Chẳng có mắt nào thương mầy, đặng làm một việc trong những việc đó cho mầy v́ 
ḷng thương xót mầy; song mầy đă bị quăng giữa đồng trống trong ngày mầy sanh 
ra, v́ người ta gớm mầy.
6. Khi ta qua gần mầy, thấy mầy tắm trong máu ḿnh, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở 
giữa máu mầy, hăy sống! Thật, ta phán cùng mầy rằng: Dầu ở giữa máu mầy, hăy 
sống!
7. Ta đă làm cho mầy thêm nhiều ra, như vật đồng ruộng mọc lên. Mầy đă nẩy nở, 
lớn lên, và trở nên đẹp đẽ lắm. Vú mầy dậy lên, tóc mầy dài ra, nhưng hăi c̣n ở 
lỗ và trần truồng.
8. Khi ta qua gần mầy, và nh́n mầy, nầy, tuổi mầy nầy, mầy đă đến tuổi yêu mến. 
Ta lấy áo ngoài ta trùm trên mầy, che sự trần truồng mầy. Phải, ta thề cùng mầy 
và kết giao ước với mầy, th́ mầy trở nên của ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
9. Ta rửa mầy trong nước, làm cho sạch máu vấy ḿnh mầy, và xức dầu cho.
10. Ta mặc áo thêu cho mầy, cho mầy mang giày sắc lam, thắt lưng mầy bằng vải 
gai mịn, đắp cho mầy bằng hàng lụa.
11. Ta lấy đồ trang sức giồi cho mầy, xỏ ṿng vào tay, mang kiềng vào cỡ,
12. tra khoen nơi mũi, đeo hoa vào tai, và đội măo đẹp trên đầu mầy.
13. Như vầy, mầy được trang sức bằng vàng bằng bạc; áo xống của mầy bằng vải gai 
mịn, bằng hàng lụa, bằng đồ thêu; mầy nuôi ḿnh bằng bột ḿ lọc, bằng mật ong và 
bằng dầu. Mầy đă trở nên cực đẹp, và thạnh vượng đến nỗi được ngôi hoàng hậu.
14. Danh tiếng mầy lừng lẫy trong các nước bởi sắc đẹp mầy; v́ sự đẹp là toàn 
vẹn bởi oai nghi của ta mà ta đă đặt trên mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15. Nhưng mầy cậy sắc đẹp ḿnh; cậy danh tiếng ḿnh mà buông sự dâm dục, hành 
dâm cùng mọi kẻ trải qua, phó ḿnh mầy cho nó.
16. Mầy dùng áo xống ḿnh, trang sức nhiều mùi, và làm sự dâm loạn tại đó; đều 
ấy sẽ chẳng đến, cũng sẽ chẳng có bao giờ.
17. Mầy cũng đă lấy những đồ trang sức trọng thể, làm bằng vàng và bạc mà ta đă 
ban cho mầy; mầy dùng làm h́nh người nam, rồi hành dâm với nó.
18. Mầy lấy áo xống thêu của minh mà đắp cho chúng nó, lấy dầu và hương của ta 
bày ra trước mặt chúng nó.
19. Bánh mà ta đă ban cho mầy, bột ḿ lọc, dầu, và mật ong mà ta cho mầy ăn, th́ 
mầy đem mà bày ra hết trước mặt chúng nó, để làm mùi thơm tho. Thật, có sự ấy, 
Chúa Giê-hô-va phán vậy.
20. Mầy đă bắt những con trai con gái mà mầy đă sanh ra cho ta, đem dâng cho 
chúng nó đặng nuốt đi. Những sự dâm ô đó há phải là nhỏ mọn sao?
21. Mầy đă giết con cái ta, và đă đưa qua trên lửa mà nộp cho chúng nó.
22. Giữa mọi sự gớm ghiếc và sự tà dâm mầy, mầy không nhớ lúc c̣n thơ trẻ, khi 
mầy hăi c̣n ở lỗ, truồng trần hết cả, tắm trong máu ḿnh.
23. Chúa Giê-hô-va phán: Khốn nạn, khốn nạn cho mầy! sau khi mầy làm mọi sự dự 
ấy,
24. lại xây ṿng khung cho ḿnh, dựng nơi cao cho ḿnh trên mọi đường phố.
25. Nơi lối vào các đường phố, mầy xây nơi cao ḿnh, và đă làm cho sự đẹp đẽ mầy 
nên gớm ghiếc, mầy đă nộp ḿnh cho mọi người đi qua, và thêm nhiều sự tà dâm 
mầy.
26. Mầy đă hành dâm với những người Ê-díp-tô, là người lân cận mầy có thân thể 
mạnh mẽ, mầy đă thêm nhiều sự tà dâm đặng chọc giận ta.
27. Vậy, ta đă giang tay ta trên mầy; bớt phần đă chỉ định cho mầy, và phó mầy 
cho ư muốn của kẻ ghét mầy, tức các con gái Phi-li-tin, chúng nó đă mắc cỡ về sự 
hành dâm của mầy.
28. Mầy cũng đă hành dâm cùng những người A-si-ri, v́ mầy không no chán. Sau khi 
đă phạm tội tà dâm với chúng nó, mầy c̣n chưa no chán.
29. Vả, mầy đă thêm nhiều sự dâm dục với đất Ca-na-an cho đến Canh-đê, thế mà 
mầy cũng chưa no chán!
30. Chúa Giê-hô-va phán: Ôi! ḷng mầy luốt lát là dường nào, mầy phạm mọi việc 
đó, là việc của đờn bà tà dâm không biết xấu.
31. Khi mầy xây ṿng khung ḿnh nơi lối vào mỗi đường, dựng nơi cao trên mỗi 
đường phố, mầy không giống như đứa điếm đĩ, bởi mầy khinh tiền công;
32. mầy là đờn bà ngoại t́nh, tiếp người lạ thay v́ chồng ḿnh.
33. Hễ là đứa điếm đĩ th́ được tiền công; nhưng mầy th́ dâng lễ vật cho hết thảy 
t́nh nhơn mầy; mầy đă hối lộ cho chúng, để chúng đến tư bề mà hành dâm với mầy.
34. Mầy đă làm trái với đờn bà khác trong sự tà dâm mầy, v́ người ta không t́m 
mầy; và mầy trả tiền công, c̣n người ta không cho mầy chi hết. Ấy là mầy trái 
với những kẻ khác!
35. Vậy nên, hỡi kẻ điếm đĩ, hăy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
36. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ cớ mầy đă đổ ra sự ô uế, tỏ ra sự trần 
truồng bởi sự hành dâm với t́nh nhơn mầy; và v́ cớ mọi thần tượng gớm ghiếc của 
mầy, cũng v́ cớ máu con cái mầy đă dâng cho chúng nó,
37. cho nên, nầy, ta sẽ nhóm hết thảy t́nh nhơn mầy, tức những kẻ mầy ưa thích, 
mọi kẻ mầy yêu, mọi kẻ mầy ghét; ta sẽ nhóm chúng nó từ mọi bề đến nghịch cùng 
mầy; ta sẽ lột truồng mầy cho chúng nó, chúng nó sẽ thấy hết.
38. Ta sẽ đoán phạt mầy như đoán phạt đờn bà bội chồng và làm đổ máu; ta sẽ lấy 
máu của sự giận dữ và ghen tương mà đổ trên mầy.
39. Ta cũng sẽ phó mầy vào tay chúng nó: chúng nó sẽ phá ṿng khung và đổ các 
nơi cao của mầy; lột áo xống mầy, để mầy ở lỗ và truồng trần.
40. Chúng nó sẽ khiến một lũ người lên nghịch cùng mầy, ném đá mầy và đâm mầy 
bằng gươm.
41. Chúng nó sẽ lấy lửa đốt nhà mầy, đoán xét mầy trước mắt nhiều đờn bà; ta sẽ 
làm cho mầy hết hành dâm và mầy cũng không cho tiền công nữa.
42. Vậy th́ cơn giận ta sẽ dứt, sự ghen tương ta ĺa khỏi mầy, và ta yên lặng, 
không giận nữa.
43. V́ mầy không nhớ lúc ḿnh c̣n thơ bé, và đă nóng giận nghịch cùng ta trong 
mọi việc; cho nên, nầy, ta cũng sẽ làm cho đường lối mầy lại đổ trên đầu mầy, 
Chúa Giê-hô-va phán vậy; mầy sẽ không thêm sự hành dâm nầy vào mọi sự gớm ghiếc 
mầy nữa.
44. Phàm người hay dùng tục ngữ, sẽ lấy câu tục ngữ nầy mà nói về mầy: Mẹ thế 
nào, con gái thế ấy!
45. Mầy là con gái của mẹ mầy, mẹ mầy đă chán bỏ chồng con ḿnh; mầy là em các 
chị mầy, các chị mầy đă chán bỏ chồng con ḿnh; mẹ mầy là người Hê-tít, và cha 
mầy là người A-mô-rít.
46. Chị mầy là Sa-ma-ri cũng các con gái nó, ở bên tả mầy; em mầy là Sô-đôm cùng 
các con gái nó, ở bên hữu mầy.
47. C̣n mầy không bước đi trong đường chúng nó, và không phạm những sự gớm ghiếc 
giống nhau; mầy cho điều đó là nhỏ mọn, nhưng mầy đă tự làm ra xấu hơn chúng nó 
trong mọi đường lối mầy nữa.
48. Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, Sô-đôm, em mầy, chính ḿnh nó và 
con gái nó chưa từng làm sự mầy và con gái mầy đă làm.
49. Nầy, đây là sự gian ác của em gái mầy là Sô-đôm và các con gái nó: ở kiêu 
ngạo, ăn bánh no nê, và ở nể cách sung sướng; nó lại không bổ sức cho tay kẻ 
nghèo nàn và thiếu thốn.
50. Chúng nó đă trở nên cao ngạo, phạm những sự gớm ghiếc trước mặt ta; nên ta 
đă trừ chúng nó đi, vừa khi ta thấy mọi điều đó.
51. Sa-ma-ri chưa phạm đến phân nửa tội mà mầy đă phạm; mầy đă thêm nhiều sự gớm 
ghiếc hơn nó, và bởi những sự gớm ghiếc mầy đă phạm, th́ chị em mầy con được kể 
là công b́nh.
52. Mầy xét đoán chị em mầy, ấy là mầy chuốc lấy sự xấu hổ ḿnh. V́ cớ tội lỗi 
mầy c̣n là đáng gớm hơn chúng nó, th́ chúng nó là công b́nh hơn mầy. Vậy, mầy 
cũng hăy mang nhơ chịu hổ, v́ mầy đă làm cho chị em mầy được kể là công b́nh!
53. Ta sẽ đem những phu tù của Sô-đôm và các con gái nó trở về, đem những phu tù 
của Sa-ma-ri và các con gái nó trở về, cũng đem các phu tù của mầy ở giữa chúng 
nó trở về nữa;
54. để mầy mang nhuốc ḿnh, và chịu hổ về mọi điều mầy đă làm, v́ đă làm cho 
chúng nó được yên ủi.
55. Chị em mầy, Sô-đôm và con gái nó, sẽ trở lại như khi xưa. Sa-ma-ri cùng con 
gái nó cũng trở lại như khi xưa. Mầy cùng con gái mầy cũng sẽ trở lại như khi 
xưa.
56. Trong ngày mầy kiêu ngạo, miệng mầy chẳng nhắc đến tên Sô-đôm, em mầy;
57. lúc đó sự dự của mầy chưa lộ ra, mầy c̣n chưa bị những lời nhiếc móc của con 
gái Sy-ri và hết thảy các xứ lân cận, của các con gái Phi-li-tin nó khinh dể mầy 
tư bề.
58. Mầy đă mang lấy sự hành dâm và sự gớm ghiếc của mầy, Đức Giê-hô-va phán vậy.
59. V́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mầy đă khinh dể lời thề mà dứt bỏ giao ước 
ta, ta sẽ đối đăi mầy như mầy đă làm.
60. Dầu vậy, ta sẽ nhớ lại giao ước ta đă lập với mầy đương ngày mầy thơ bé, ta 
v́ mầy sẽ lập một giao ước đời đời.
61. Khi mầy sẽ nhận lấy những chị em mầy, mầy sẽ nhớ lại đường lối ḿnh mà hổ 
thẹn; bấy giờ ta sẽ trao chúng nó cho mầy làm con gái, nhưng không cứ theo giao 
ước mầy.
62. Ta sẽ lập giao ước ta với mầy, mầy sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va;
63. hầu cho mầy được nhớ lại và hổ ngươi; v́ chớ sự xấu hổ mầy, mầy chẳng c̣n mở 
miệng nữa, khi ta đă tha thứ mọi điều mầy đă làm, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 17   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
2. Hỡi con người, khá ra câu đố, kể lời ví dụ cho nhà Y-sơ-ra-ên.
3. Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Có một chim ưng lớn, cánh 
lớn lông dài, đầy lông và có nhiều sắc, đến Li-ban và lấy ngọn cây hương bách 
đi.
4. Nó bẻ nhành non rất cao, đem đến trong một đất thương măi, và để trong một 
thành của người buôn bán.
5. Sau rồi nó lấy giống của đất ấy đem trồng nơi đất tốt; đặt gần nơi nhiều 
nước, và trồng như cây liễu.
6. Cây nứt lên, trở nên một gốc nho diềm dà, nhưng không cao mấy: những nhánh nó 
hướng về phía chim ưng, rễ nó càng ra ở dưới; vậy nó trở nên một gốc nho, sanh 
ra những tược và nứt chồi.
7. Nhưng có một chim ưng lớn khác, cánh lớn, lông nhiều; nầy, gốc nho từ chỗ đất 
ḿnh đă được trồng, căng rễ ra và ngả nhành hướng về nó, hầu cho chim ưng ấy đến 
tưới ḿnh.
8. Gốc nho đă được trồng nơi đất tốt, gần nơi nhiều nước, hầu cho nứt tược, ra 
trái, trở nên cây nho tốt.
9. Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cây nho há được thạnh tốt 
sao? Chim ưng kia há chẳng nhổ rễ nó, cắt trái nó, cho đến nỗi làm khô héo hết 
những lá non nó đă nứt ra sao? Không cần có cánh tay mạnh, cũng không cần nhiều 
người để làm trốc rễ nó.
10. Ḱa, đă trồng nó, nó có được thạnh tốt chăng? Vừa khi gió đông đụng đến nó, 
nó há chẳng khô héo cả sao? Phải, nó sẽ khô nơi cùng một luống đất mà nó đă được 
trồng.
11. Vả, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
12. Hăy nói cùng nhà bạn nghịch ấy rằng: Các ngươi không biết điều đó có ư nghĩa 
thế nào sao? Lại khá nói rằng: Nầy, vua Ba-by-lôn đă di đến Giê-ru-sa-lem; đă 
bắt vua và các quan trưởng đem đi với ḿnh về Ba-by-lôn.
13. Vua ấy đă chọn một con vua, lập giao ước với, khiến phát lời thề, và đă điệu 
những người mạnh trong đất đi,
14. đặng cho nước phải sa sút, không tự dấy lên được; song bởi giữ giao ước, th́ 
nước c̣n lại.
15. Nhưng vua đă dấy loạn nghịch cùng vua Ba-by-lôn, mà sai sứ thần đến 
Ê-díp-tô, đặng người ta giúp cho những ngựa và nhiều dân. Người há được thạnh 
vượng sao? Người đă làm những việc như vầy, há thoát nạn được sao? Đă dứt bỏ lời 
giao ước, c̣n mong thoát nạn!
16. Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ấy là tại nơi ở của vua đă tôn 
nó lên ngôi, mà nó đă khinh dể lời thề và dứt bỏ giao ước, th́ nó cũng sẽ chết 
với vua ấy tại giữa Ba-by-lôn.
17. Pha-ra-ôn sẽ không đi với một đạo binh lớn và những toán lính đông đến cứu 
viện trong sự giao chiến, hi người ta đắp lũy dựng đồn để hủy diệt nhiều người.
18. Thật vậy, Sê-đê-kia đă khinh dể lời thề, phạm đến giao ước; nầy, đă trao tay 
ra rồi, thế mà nó c̣n làm những sự ấy. Nó chắc không thoát khỏi!
19. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Thật như ta hằng sống, nó đă khinh dể 
lời thề ta, dứt bỏ giao ước ta, ta sẽ khiến điều đó đổ lại trên đầu nó.
20. Ta sẽ giăng lưới ta trên nó, nó sẽ mắc vào lưới ta; ta sẽ đem nó qua 
Ba-by-lôn, tại đó ta sẽ đoán xét nó về tội nghịch cùng ta.
21. Phàm những quân lính nó đi trốn sẽ ngă dưới lưỡi gươm; những kẻ c̣n sót lại 
sẽ bị tan lạc hướng về mọi gió. Bấy giờ các ngươi sẽ biết ấy chính ta, Đức 
Giê-hô-va, là Đấng đă phán vậy.
22. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chính ta cũng sẽ lấy ngọn cây hương bách cao, 
và ta sẽ trồng. Ở nơi cuối cùng những nhánh nó, ta sẽ bẻ một chồi non, và chính 
ta sẽ trồng nó trên ḥn núi cao chót vót.
23. Thật, ta sẽ trồng nó trên núi cao của Y-sơ-ra-ên; nó sẽ nứt nhành, và ra 
trái; sẽ trở nên cây hương bách tốt, cả loài chim sẽ đến núp dưới nó; hết thảy 
những giống có cánh sẽ ở dưới bóng của nhánh cây.
24. Mọi cây ngoài đồng sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, đă hạ cây cao xuống và 
cất cây thấp lên, ta đă làm khô cây xanh, và làm cho cây khô tốt lên. Ta, Đức 
Giê-hô-va, đă phán và làm thành sự đó.
Ê-xê-chi-ên 18   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
2. Các ngươi dùng câu tục ngữ nầy về đất Y-sơ-ra-ên, rằng: Cha ăn trái nho chua, 
mà con ghê răng, câu đó có nghĩa ǵ?
3. Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, các ngươi sẽ không cần dùng câu 
tục ngữ ấy trong Y-sơ-ra-ên nữa.
4. Nầy, mọi linh hồn đều thuộc về ta; linh hồn của cha cũng như linh hồn của 
con, đều thuộc về ta; linh hồn nào phạm tội th́ sẽ chết.
5. Nếu người nào là công b́nh, làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật,
6. không ăn trên núi, không ngước mắt trông các thần tượng của nhà Y-sơ-ra-ên, 
không làm nhục vợ kẻ lân cận ḿnh, không lại gần đờn bà đương có kinh nguyệt;
7. người mà không làm hại ai, trả của cầm lại cho kẻ mắc nợ, không cướp vật ǵ 
của ai, ban bánh cho kẻ đói, mặc áo cho kẻ trần truồng,
8. không cho vay mà ăn lời, không lấy thêm, rút tay lại khỏi sự gian ác, theo lẽ 
thật mà xét đoán trong người nầy với người khác;
9. noi theo luật lệ ta và vâng giữ mạng lịnh ta, ăn ở cách thật thà, th́ người 
ấy là người công b́nh; chắc thật người sẽ sống, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
10. Nếu người đă sanh con là trộm cướp, làm đổ máu, làm điều nào trong những 
điều ác đă nói trên kia,
11. chẳng làm điều nào trong những điều thiện đă nói trên kia, nhưng đă ăn trên 
núi, làm nhục vợ kẻ lân cận ḿnh,
12. làm hại kẻ nghèo nàn thiếu thốn, cướp vật ǵ của ai, và không trả của cầm, 
ngước mắt trông các thần tượng và phạm sự gớm ghiếc,
13. cho vay ăn lời và lấy thêm, th́ đứa con đó sẽ sống không? Không nó sẽ không 
sống! V́ nó đă phạm mọi sự gớm ghiếc ấy, chắc thật nó sẽ chết, và máu nó sẽ ở 
trên nó.
14. Nhưng, nếu người ấy sanh con trai, con thấy mọi sự tội cha ḿnh đă phạm, th́ 
lo sợ, không làm điều chi giống như vậy hết;
15. nếu con ấy không ăn trên núi, nếu nó không ngước mắt trông thần tượng của 
nhà Y-sơ-ra-ên, nếu nó không làm nhục vợ kẻ lân cận ḿnh,
16. nếu nó không làm hại ai, nếu nó không lấy của cầm và không cướp vật ǵ của 
ai, nhưng nó ban bánh cho kẻ đói, và mặc áo cho kẻ trần truồng;
17. rút tay lại khỏi hại kẻ nghèo, không đ̣i lời lăi và lấy thêm, vâng giữ mạng 
lịnh ta và noi theo luật lệ ta, th́ đứa con ấy sẽ không chết v́ sự gian ác cha 
nó, mà chắc nó sẽ sống.
18. C̣n như cha nó đă dùng sự hung bạo ức hiếp, và phạm sự trộm cướp đối với anh 
em ḿnh, đă làm điều không lành giữa dân sự ḿnh, nầy, chính nó sẽ chết trong sự 
gian ác ḿnh.
19. Các ngươi c̣n nói rằng: Làm sao đứa con không mang sự gian ác của cha nó? Ấy 
là đứa con đă làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật; ấy là nó đă giữ hết thảy 
luật lệ ta và làm theo; chắc thật nó sẽ sống.
20. Linh hồn nào phạm tội th́ sẽ chết. Con sẽ không mang sự gian ác của cha và 
cha không mang sự gian ác của con. Sự công b́nh của người công b́nh sẽ được kể 
cho ḿnh, sự dữ của kẻ dữ sẽ chất trên ḿnh.
21. Song nếu kẻ dữ xây bỏ hết thảy tội ḿnh đă phạm, nếu nó giữ mọi luật lệ ta, 
và nếu nó làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật, chắc thật nó sẽ sống và không 
chết đâu.
22. Không có một tội nào nó đă phạm sẽ bị nhớ lại nghịch cùng nó; nó sẽ sống v́ 
cớ sự công b́nh nó đă làm.
23. Chúa Giê-hô-va phán rằng: Ta há có vui chút nào về sự chết của kẻ dữ sao? há 
chẳng thà vui về sự nó xây bỏ đường lối ḿnh và nó sống sao?
24. Nhưng nếu kẻ công b́nh xây bỏ sự công b́nh của ḿnh, nếu nó phạm sự gian ác, 
nếu nó bắt chước mọi sự gớm ghiếc mà kẻ dữ tự làm, th́ nó sẽ sống không? Không 
có một việc công b́nh nào nó đă làm sẽ được nhớ lại; v́ cớ sự phạm pháp mà nó đă 
làm, và tội lỗi nó đă phạm, nên nó sẽ chết trong đó.
25. Các ngươi lại nói rằng: Đường lối của Chúa là không bằng phẳng! Vậy, hỡi nhà 
Y-sơ-ra-ên, hăy nghe: Đường lối của ta há không bằng phẳng sao? Há chẳng phải 
đường lối của các ngươi là không bằng phẳng sao?
26. Nếu kẻ công b́nh xây bỏ sự công b́nh ḿnh, nếu nó phạm sự gian ác, và nếu nó 
v́ cớ ấy mà chết; ấy là v́ tội ác nó đă phạm mà nó chết.
27. Nếu kẻ dữ xây bỏ sự dữ ḿnh đă phạm, nếu nó làm theo luật pháp và hiệp với 
lẽ thật, th́ nó sẽ cứu linh hồn ḿnh cho được sống.
28. V́ nó suy xét và xây bỏ mọi sự phạm pháp ḿnh đă làm, chắc thật nó sẽ sống 
và không chết đâu.
29. Nhưng mà nhà Y-sơ-ra-ên nói rằng: Đường lối của Chúa là không bằng phẳng. 
Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên có phải là đường lối của ta không bằng phẳng sao? Há chẳng 
phải đường lối của các ngươi là không bằng phẳng sao?
30. Vậy nên Chúa Giê-hô-va phán rằng: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đoán xét các 
ngươi, mỗi người theo việc làm của nó. Hăy trở lại và xây bỏ mọi sự phạm pháp 
của các ngươi; vậy th́ sự gian ác không trở nên cớ hư nát cho các ngươi.
31. Hăy liệng xa các ngươi mọi sự phạm pháp mà tự ḿnh đă làm. Hăy làm cho ḿnh 
ḷng mới và thần mới; v́, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, làm sao mà các ngươi muốn chết?
32. Chúa Giê-hô-va phán rằng: Thật vậy, ta không vui đâu về sự chết của kẻ phải 
chết, vậy các ngươi hăy xây lại, mà được sống!
Ê-xê-chi-ên 19   
 chọn đoạn khác
1. Vậy ngươi hăy đọc bài ca thương về các quan trưởng Y-sơ-ra-ên,
2. mà rằng: Mẹ ngươi xưa kia là thế nào? Là sư tử cái nằm giữa những sư tử đực; 
nuôi nấng con nó giữa những sư tử con.
3. Nuôi nấng một con trong các con nó, trở nên một sư tử tơ; tập bắt mồi, và 
nuốt người ta.
4. Các dân nghe tiếng về nó; nó bị bắt trong hầm; sau khi đă đặt móc nơi hàm, 
các nước điệu nó sang đất Ê-díp-tô.
5. Khi sư tử cái đợi chờ đă lâu, và sự trông cậy ḿnh đă mất, bèn lấy một con 
khác và nuôi nên một sư tử tơ.
6. Nó đi lại giữa những sư tử, trở nên một sư tử tơ; tập bắt mồi, và nuốt người 
ta.
7. Nó biết cung đền chúng nó, và hủy phá các thành; đất nầy cùng mọi vật trong 
nó đều bị hoang vu, v́ tiếng gầm của nó.
8. Các nước ở mọi miền chung quanh bày hàng ra nghịch cùng nó, bủa lưới trên nó; 
bó bị bắt trong hầm.
9. Lấy móc móc hàm và nhốt nó vào cũi, rồi điệu đến nơi vua nước Ba-by-lôn; dắt 
nó vào nơi đồn lũy, hầu cho tiếng nó không vang ra nữa trên núi Y-sơ-ra-ên.
10. Mẹ ngươi như một cây nho, trong máu ngươi, trồng nơi mé nước. Trịu những 
trái và nhành, nhờ có nhiều nước.
11. Nó mang những nhành mạnh mẽ, trở nên gậy của kẻ cai trị. Thân nó cao quá các 
nhánh.
12. Nhưng nó đă bị nhổ bởi cơn giận, và bị quăng nơi đất. Gió đông đă làm khô 
trái nó; những nhánh mạnh mẽ của nó đă bị bẻ ra và khô; lửa đă nuốt nó đi!
13. Bây giờ nó bị trồng nơi đồng vắng, trong đất khô và khát.
14. Lửa đă ra từ các nhành của nó, và đă nuốt trái nó, đến nỗi không c̣n có 
nhành mạnh mẽ nữa, để làm gậy mà cai trị. Ấy là bài ca thương, về sau sẽ lấy làm 
bài ca thương.
Ê-xê-chi-ên 20   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ bảy, ngày mồng mười tháng năm, có một vài trưởng lăo Y-sơ-ra-ên đến 
đặng cầu hỏi Đức Giê-hô-va, họ ngồi trước mặt ta.
2. Bấy giờ, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
3. Hỡi con người, hăy nói cùng các trưởng lăo Y-sơ-ra-ên, bảo chúng nó rằng: 
Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Có phải các ngươi đến đặng cầu hỏi ta chăng? Chúa 
Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta không để cho các ngươi cầu hỏi.
4. Hỡi con người, ngươi muốn xét đoán chúng nó, ngươi muốn xét đoán chúng nó 
chăng? Hăy làm cho chúng nó biết những sự gớm ghiếc của tổ phụ ḿnh.
5. Vậy ngươi khá nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Đương ngày 
mà ta chọn Y-sơ-ra-ên, mà ta thề cùng ḍng dơi nhà Gia-cốp, mà ta tỏ ḿnh cho 
chúng nó biết ta trong đất Ê-díp-tô, khi ta thề cùng chúng nó, và rằng: Ta là 
Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi;
6. ngày đó ta thề hứa cùng chúng nó rằng ta sẽ đem chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô 
đặng vào đất mà ta đă t́m sẵn cho chúng nó, tức là đất đượm sữa và mật ong, vinh 
hiển nhứt trong các đất.
7. Ta nói cùng chúng nó rằng: Các ngươi ai nấy khá quăng xa ḿnh những sự gớm 
ghiếc của mắt các ngươi, và chớ làm ô uế minh với các thần tượng của Ê-díp-tô! 
Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
8. Nhưng mà chúng nó dấy loạn nghịch cùng ta, và không muốn nghe ta; ai nấy 
không ném bỏ những sự gớm ghiếc của mắt ḿnh, và không ĺa bỏ các thần tượng của 
Ê-díp-tô. Bấy giờ ta nói rằng ta sẽ đổ cơn giận ta trên chúng nó, làm trọn sự 
giận ta nghịch cùng chúng nó giữa đất Ê-díp-tô.
9. Nhưng ta đă v́ cớ danh ta mà làm, hầu cho danh ấy khỏi bị nói phạm trước mắt 
các dân ngoại mà chúng nó ở giữa, trước mắt các dân ấy ta đă tỏ ḿnh cho chúng 
nó biết, khi đem chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô.
10. Vậy ta đă làm cho chúng nó ra khỏi đất Ê-díp-tô, và đem chúng nó đến nơi 
đồng vắng.
11. ta ban cho chúng nó lề luật ta, và làm cho chúng nó biết mạng lịnh ta, là 
điều nếu người ta làm theo th́ được sống bởi nó.
12. Ta cũng cho chúng nó những ngày sa bát ta làm một dấu giữa ta và chúng nó, 
đặng chúng nó biết rằng ta là Đức Giê-hô-va biệt chúng nó ra thánh.
13. Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên nổi loạn nghịch cùng ta trong đồng vắng. Chúng nó không 
noi theo lệ luật ta, khinh bỏ mạng lịnh ta, là điều nếu người ta làm theo th́ 
được sống bởi nó, và phạm các ngày sa-bát ta nặng lắm. Bấy giờ ta nói ta sẽ đổ 
cơn giận ta trên chúng nó trong đồng vắng, đặng diệt hết đi.
14. Nhưng ta đă v́ cớ danh ta mà làm hầu cho danh ấy không bị nói phạm trước mắt 
các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đă đem chúng nó ra khỏi.
15. Vả, ta cũng đă thề cùng chúng nó trong đồng vắng rằng ta sẽ không đem chúng 
nó vào đất mà ta đă định cho chúng nó, là đất đượm sữa và mật ong, vinh hiển 
nhứt trong mọi đất;
16. v́ chúng nó đă bỏ mạng lịnh ta, không noi theo lệ luật ta, và phạm những 
ngày sa-bát ta; bởi ḷng chúng nó đă hướng về thần tượng ḿnh.
17. Dầu vậy, mắt ta đă thương tiếc chúng nó, ta không hủy diệt chúng nó, ta 
không làm tận tuyệt chúng nó trong đồng vắng.
18. Ta phán cùng con cái chúng nó trong đồng vắng rằng: Đừng noi theo luật lệ 
của ông cha các ngươi, đừng giữ mạng lịnh họ, và tự làm ô uế với những thần 
tượng của họ.
19. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, hăy noi theo luật lệ ta, vâng giữ 
mạng lịnh ta và làm theo.
20. Hăy biệt những ngày sa-bát ta ra thánh, nó sẽ làm dấu giữa ta và các ngươi, 
hầu cho chúng nó biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
21. Nhưng con cái dấy loạn nghịch cùng ta; không noi theo luật lệ ta, không vâng 
giữ và không làm theo mạng lịnh ta, là điều người ta nếu làm theo th́ được sống 
bởi nó; và chúng nó phạm những ngày sa-bát ta nữa. Bấy giờ, ta nói rằng ta sẽ đổ 
cơn giận ta trên chúng nó, và làm trọn sự giận của ta nghịch cùng chúng nó trong 
đồng vắng.
22. Song le ta đă kéo tay ta lại, và đă v́ danh ta mà làm, hầu cho danh ấy không 
bị nói phạm trước mắt các dân ngoại, trước mắt các dân ấy ta đă đem chúng nó ra 
khỏi.
23. Vả, ta đă thề cùng chúng nó nơi đồng vắng rằng ta sẽ làm cho chúng nó tan 
lạc giữa các người và rải ra trong nhiều nước;
24. v́ chúng nó không vâng làm mạng lịnh ta, nhưng đă bỏ lệ luật ta, đă phạm 
những ngày sa-bát ta, và mắt chúng nó đă hướng về các thần tượng của tổ phụ 
ḿnh.
25. Ta cũng đă ban cho chúng nó những luật lệ chẳng lành, và mạng lịnh mà bởi đó 
chúng nó không được sống.
26. Ta làm ô uế chúng nó bởi của cúng chúng nó, khi chúng nó khiến mọi con đầu 
ḷng qua trên lửa, hầu ta làm cho chúng nó ra hoang vu, đến nỗi chúng nó biết 
rằng ta là Đức Giê-hô-va.
27. Vậy nên, hỡi con người, hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên, bảo nó rằng: Chúa 
Giê-hô-va phán như vầy: Tổ phụ các ngươi đă nói phạm ta, bởi chúng nó đă phạm 
pháp nghịch cùng ta.
28. Khi ta đă đem chúng nó vào đất mà ta đă thề ban cho chúng nó, bấy giờ chúng 
nó đă t́m thấy các g̣ cao và các cây rậm, mà dâng của lễ ḿnh tại đó; chúng nó 
đă bày ra tại đó những của cúng chọc giận ta, cũng đă đặt tại đó những hương có 
mùi thơm, và đă làm lễ quán.
29. Bấy giờ ta nói cùng chúng nó rằng: Nơi cao mà các ngươi đi đó là ǵ? Cho nên 
nơi cao ấy c̣n gọi là Ba-ma cho đến ngày nay.
30. Vậy nên, hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các 
ngươi tự làm ô uế ḿnh theo cách tổ phụ các ngươi, và các ngươi hành dâm theo 
những sự gớm ghiếc của họ sao?
31. Khi các ngươi dâng lễ vật, khi các ngươi c̣n tự làm ô uế với những thần 
tượng ḿnh cho đến ngày nay sao? Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta há để cho các ngươi cầu 
hỏi sao? Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta không để cho các ngươi 
cầu hỏi!
32. Chẳng có sự ǵ sẽ xảy ra như điều các ngươi tưởng, khi các ngươi nói rằng: 
Chúng ta muốn nên như các dân tộc và các họ hàng ở các nước, thờ gỗ và đá.
33. Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ấy là dùng tay mạnh mẽ và cánh 
tay giang ra, lấy thạnh nộ đổ ra mà ta sẽ làm vua trên các ngươi!
34. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi giữa các dân; ta sẽ dùng tay mạnh mẽ và cánh tay 
giang ra và sự thạnh nộ đổ ra để nhóm các ngươi lại từ các nước mà các ngươi đă 
bị tan tác trong đó.
35. Ta sẽ đem các ngươi vào nơi đồng vắng của các dân, tại đó ta sẽ đối mặt xét 
đoán các ngươi.
36. Như ta đă xét đoán tổ phụ các ngươi trong đồng vắng đến Ê-díp-tô thể nào, 
th́ ta cũng xét đoán các ngươi thể ấy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
37. Ta sẽ làm cho các ngươi qua dưới gậy, và sẽ đem các ngươi vào trong dây giao 
ước.
38. Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi những kẻ bạn nghịch, và những kẻ phạm pháp 
nghịch cùng ta; ta sẽ đem chúng nó ra khỏi đất ḿnh trú ngụ, nhưng chúng nó sẽ 
không vào đất Y-sơ-ra-ên. Như vầy các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
39. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, về các ngươi, th́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy đi, 
mỗi người trong các ngươi khá thờ thần tượng ḿnh! Sau sự đó, các ngươi chắc sẽ 
nghe ta và sẽ không nói phạm danh thánh của ta nữa bởi của cúng và bởi thần 
tượng các ngươi.
40. Chúa Giê-hô-va phán rằng: V́ trên núi thánh ta, trên núi cao của Y-sơ-ra-ên, 
tại đó cả nhà Y-sơ-ra-ên, hết thảy chúng nó, sẽ hầu việc ta ở trong đất. Tại đó 
ta sẽ nhận lấy chúng nó; và tại đó ta sẽ đ̣i của lễ các ngươi, và những trái đầu 
mùa của của lễ các ngươi, cùng mọi vật thánh.
41. Ta sẽ nhận lấy các ngươi như mùi thơm tho, khi ta đem các ngươi ra khỏi giữa 
các dân, và nhóm các ngươi từ những người mà các ngươi đă bị tan tác; và ta sẽ 
được tỏ ra thánh trong các ngươi ở trước mắt dân ngoại.
42. Các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ đem các ngươi vào đất của 
Y-sơ-ra-ên, trong nước mà ta đă dùng lời thề hứa ban cho tổ phụ các ngươi.
43. Tại đó các ngươi sẽ nhớ lại đường lối ḿnh và mọi việc tự ḿnh làm nên ô uế; 
các ngươi sẽ tự chán ngán trước mắt ḿnh, v́ cớ mọi sự dữ ḿnh đă phạm.
44. Các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ v́ danh ta mà đăi các 
ngươi, chớ không theo đường lối xấu xa và việc làm hư nát của các ngươi, hỡi nhà 
Y-sơ-ra-ên, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
45. (21:1) Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
46. (21:2) Hỡi con người, hăy xây mặt về phía nam, đối với phương nam mà nói: 
đối với rừng của đồng nội phương nam mà nói tiên tri.
47. (21:3) Khá nói cùng rừng phương nam rằng: Hăy nghe lời của Đức Giê-hô-va! 
Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ nhen lửa trong ngươi, lửa sẽ thiêu nuốt 
hết cả cây xanh và cả cây khô nơi ngươi. Ngọn lửa hừng sẽ không tắt, mọi mặt sẽ 
bị cháy bởi nó từ phương nam chí phương bắc.
48. (21:4) Mọi xác thịt sẽ thấy rằng ấy là ta, Đức Giê-hô-va, đă nhen lửa; lửa 
sẽ không hề tắt.
49. (21:5) Bấy giờ ta nói rằng: Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, họ nói về tôi rằng: Nó 
chẳng phải là kẻ nói thí dụ sao?
Ê-xê-chi-ên 21   
 chọn đoạn khác
1. (21:6) Đoạn có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
2. (21:7) Hỡi con người, hăy xây mặt về phía Giê-ru-sa-lem; đối với các nơi 
thánh mà buông lời; đối với đất Y-sơ-ra-ên mà nói tiên tri.
3. (21:8) Khá nói cùng đất Y-sơ-ra-ên rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta 
nghịch cùng ngươi. Ta sẽ rút gươm ta ra khỏi vỏ nó, đặng dứt kẻ công b́nh và kẻ 
dữ khỏi giữa ngươi.
4. (21:9) V́ ta sẽ dứt kẻ công b́nh và kẻ dữ khỏi giữa ngươi, th́ gươm ta sẽ ra 
khỏi vỏ nó nghịch cùng mọi xác thịt từ phương nam đến phương bắc,
5. (21:10) và mọi xác thịt sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va, đă rút gươm ra khỏi vỏ nó, 
nó sẽ không trở vào nữa!
6. (21:11) Hỡi con người, c̣n như ngươi, hăy than thở, như găy lưng; phải, hăy 
than thở trước mắt chúng nó cách cay đắng.
7. (21:12) Nếu chúng nó nói cùng ngươi rằng: Làm sao ngươi than thở? th́ ngươi 
trả lời rằng: Ấy là bởi cớ tin tức, v́ nó đến, làm cho mọi ḷng đều tan chảy, 
mọi tay đều yếu đuối, mọi trí đều yếu như nước. Nầy, nó hầu đến, lời ấy sẽ làm 
thành, Chúa Giê-hô-va phán vậy!
8. (21:13) Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
9. (21:14) Hỡi con người, hăy nói tiên tri, và rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: 
Hăy nói rằng: cái gươm, cái gươm nhọn và sáng!
10. (21:15) Nó nhọn cho sự chém giết; nó sáng đặng văng ra như chớp. Chúng ta có 
nên vui mừng chăng? Cái gậy của con trai ta, nó khinh dể mọi cây khác.
11. (21:16) Người ta đă cho cái gươm nầy được sáng, đặng cầm nơi tay; ấy là cái 
gươm nhọn và sáng để cho vào tay kẻ giết.
12. (21:17) Hỡi con người, khá kêu la và than van; v́ gươm ở trên dân ta, ở trên 
mọi quan trưởng Y-sơ-ra-ên, là những kẻ đă bị nộp cho gươm với dân ta. Vậy nên, 
hăy vỗ vế!
13. (21:18) Phải, có sự thử thách; cây gậy khinh dể sẽ thành ra hư không, th́ 
làm thế nào? Chúa Giê-hô-va phán vậy.
14. (21:19) Hỡi con người, vậy ngươi khá nói tiên tri đi; khá đập tay, hăy đánh 
gươm gấp lên đôi ba lần; ấy là gươm của người lớn bị thương đến chết, vào trong 
buồng kín.
15. (21:20) Ấy là để làm cho ḷng chúng nó tan chảy, cho thêm nhiều sự vấp ngă, 
mà ta đă đặt gươm ngăm đe nghịch cùng mọi cửa chúng nó. Ôi! gươm đă như chớp 
nhoáng; đă bén nhọn để giết!
16. (21:21) Ngươi hăy nhóm lại về bên hữu, và dàn trận về bên tả, tùy nơi mặt 
ngươi hướng về.
17. (21:22) Ta cũng đập hai tay, và khiến cơn giận ta yên lặng. Ấy chính ta, Đức 
Giê-hô-va, phán vậy.
18. (21:23) Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
19. (21:24) Hỡi con người, ngươi cũng hăy chỉ định cho ḿnh hai con đường đặng 
dùng làm lối đi qua cho cái gươm của vua nước Ba-by-lôn. Hai con đường ấy khá đi 
ra cả hai từ một đất; lại vạch một dấu, vạch ở đấy đường đi đến thành kia.
20. (21:25) Ngươi khá chỉ định đường lối cho gươm đi qua, một đường th́ hướng về 
Ráp-ba, thành của con cái Am-môn, và một đường hướng về Giu-đa tại 
Giê-ru-sa-lem, là thành bền vững.
21. (21:26) V́ vua Ba-by-lôn đứng lại nơi cháng ba, là nơi vào hai con đường ấy, 
đặng bói khoa. Vua ấy lắc những cái tên; hỏi các thần tượng, và xem xét gan.
22. (21:27) Trong tay hữu người có điềm chỉ về thành Giê-ru-sa-lem, đặng dùng 
máy để phá thành, đặng mở miệng giết lát, đặng cất tiếng kêu la, đặng dùng những 
máy phá thành nghịch cùng cửa thành, đặng đắp lũy và lập đồn tại đó.
23. (21:28) Những kẻ đă thề lời thề, đều thấy trong những lời đó chỉ là một điềm 
dối, nhưng vua th́ sẽ nhắc lại cho chúng nó nhớ sự gian ác ḿnh, mà bắt đi làm 
phu tù.
24. (21:29) Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ các ngươi đă nhắc cho nhớ 
lại sự gian ác ḿnh, làm cho sự phạm tội bày ra, tỏ ra tội lỗi ḿnh trong mọi 
việc làm; v́ các ngươi nhắc lại cho nhớ, th́ các ngươi sẽ bị tay bắt.
25. (21:30) Về phần ngươi, vua chúa Y-sơ-ra-ên, người gian ác bị thương đến chết 
kia, ngày của ngươi đă đến, trong kỳ gian ác về cuối cùng.
26. (21:31) Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy cất mũ nầy, lột măo triều thiên 
nầy; sự nầy chẳng giống như trước nữa! Cái ǵ thấp hăy lại cất lên, cái ǵ cao 
hăy hạ xuống.
27. (21:32) Ta sẽ úp đổ, úp đổ, úp đổ nó; sự nầy cũng sẽ không c̣n nữa, cho đến 
chừng nào Đấng đáng được sẽ đến, th́ ta sẽ giao cho.
28. (21:33) Hỡi con người, hăy nói tiên tri mà ra: Về con cái Am-môn và sự khinh 
lờn của chúng nó, th́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy nói: Thanh gươm, thanh 
gươm đă tuốt ra cho sự giết lát; đă mài sáng đặng nuốt đi, đặng nên như chớp!
29. (21:34) Đang khi chúng nó v́ ngươi thấy sự hiện thấy giả dối, bói khoa sự 
dối cho ngươi, hầu cho đặt ngươi trên cổ kẻ gian ác bị thương hầu chết, ngày 
chúng nó đă đến trong kỳ gian ác về cuối cùng.
30. (21:35) Hăy nạp gươm ngươi vào vỏ! Ấy là ở trong nơi mà ngươi đă được dựng 
nên, trong đất ngươi sanh ra, mà ta sẽ xét đoán ngươi.
31. (21:36) Ta sẽ đổ cơn giận ta trên ngươi; lấy lửa của sự thạnh nộ ta mà thổi 
trên ngươi, và ta sẽ phó ngươi trong tay người tàn bạo, giỏi sự hủy diệt.
32. (21:37) Ngươi sẽ làm củi cho lửa; máu ngươi sẽ ở giữa đất; và người ta sẽ 
không c̣n nhớ ngươi nữa; v́ ta, Đức Giê-hô-va, đă phán.
Ê-xê-chi-ên 22   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va được phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, có phải ngươi sẽ đoán xét, có phải ngươi sẽ đoán xét thành 
huyết nầy chăng? th́ hăy làm cho nó biết mọi sự gớm ghiếc của nó.
3. Hăy nói cùng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Một thành đổ máu ở giữa 
nó, hầu cho kỳ nó đến, và làm ra thần tượng nghịch cùng ḿnh để làm ô uế ḿnh!
4. Bởi máu nầy đă đổ ra, mầy tự chuốc lấy tội, và bởi các thần tượng mà mầy đă 
làm th́ mầy tự làm ô uế. Như vậy mầy đă làm cho những ngày mầy gần và những năm 
nầy đến. Vậy nên, ta đă lấy mầy làm sự hổ nhuốc cho các dân tộc, làm tṛ cười 
nhạo cho hết thảy các nước.
5. Những người ở gầy và ở xa sẽ nhạo cười mầy, là thành nhơ danh và đầy loạn.
6. Hăy xem: các quan trưởng Y-sơ-ra-ên ở trong mầy, ai nấy đều theo sức ḿnh để 
làm đổ máu.
7. Nơi mầy, người ta khinh cha mẹ; nơi mầy, người ta dùng sự bạo ngược đối với 
khách lạ; nơi mầy, người ta hiếp đáp kẻ mồ côi cùng người góa bụa.
8. Mầy khinh dể các vật thánh ta, và phạm các ngày sa-bát ta!
9. Nơi mầy, có những kẻ gièm chê gây nên sự đổ máu; nơi mầy, có kẻ làm tiệc trên 
các núi; giữa mầy, có kẻ phạm tội tà dâm.
10. Nơi mầy, có kẻ bày tỏ sự lơa lồ của cha ra; nơi mầy, có kẻ làm nhục đờn bà 
đương có kinh nguyệt.
11. Nơi mầy, kẻ nầy phạm sự gớm ghiếc với vợ người lân cận ḿnh; kẻ khác làm ô 
uế dâu ḿnh; kẻ khác nữa th́ hăm chị em ḿnh, là con gái của cha ḿnh.
12. Nơi mầy, người ta nhận của hối lộ đặng làm đổ máu; mầy đă lấy lời lăi và lấy 
thêm; mầy ức hiếp kẻ lân cận, lấy của không biết chán, và đă quên ta, Chúa 
Giê-hô-va phán vậy.
13. Vả, ta đập tay v́ sự trộm cướp mầy đă phạm, và v́ máu đă bị đổ ra giữa mầy.
14. Khi những ngày ta xử mầy sẽ đến, ḷng mầy có chịu được, và tay mầy có sức 
chăng? Ta, Đức Giê-hô-va, đă nói ra th́ sẽ làm trọn.
15. Ta sẽ làm cho mầy tan tác giữa các dân tộc, chia rẽ ra trong các nước, và ta 
sẽ làm tiêu diệt sự ô uế khỏi giữa mầy.
16. Bấy giờ chính ḿnh mầy sẽ bị khinh dể trước mắt các dân tộc, và mầy sẽ biết 
rằng ta là Đức Giê-hô-va.
17. Có lời Đức Giê-hô-va được phán cùng ta rằng:
18. Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên đă trở nên cho ta như là cáu cặn; hết thảy 
chúng nó chỉ là đồng, thiếc, sắt, ch́ trong ḷ, ấy là cáu cặn của bạc.
19. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ các ngươi hết thảy đă trở nên cáu 
cặn, cho nên, nầy, ta sẽ nhóm các ngươi lại giữa Giê-ru-sa-lem.
20. Như người ta hiệp bạc, đồng sắt, ch́ thiếc lại trong ḷ, và thổi lửa ở trên 
cho tan chảy ra thể nào, th́ trong cơn giận và sự thạnh nộ của ta, ta sẽ nhóm 
các ngươi lại và đặt vào ḷ mà làm cho tan chảy ra cũng thể ấy.
21. Thật, ta sẽ nhóm các ngươi lại và thổi lửa của cơn giận ta trên các ngươi, 
th́ các ngươi sẽ tan chảy ra giữa nó.
22. Như bạc tan chảy ra trong ḷ, th́ các ngươi cũng sẽ tan chảy ra giữa thành 
ấy, và các ngươi sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va đă đổ cơn thạnh nộ ta trên các 
ngươi.
23. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
24. Hỡi con người, hăy nói cùng nó rằng: Mầy là đất chẳng được tẩy sạch, nơi 
ngày thạnh nộ chẳng được mưa dào.
25. Những tiên tri của nó lập mưu giữa nó; như sư tử hay gầm cắn xé mồi của nó, 
chúng nó nuốt các linh hồn, cướp lấy của cải và những vật quí, làm cho kẻ góa 
bụa thêm nhiều ra giữa thành.
26. Các thầy tế lễ nó phạm luật pháp ta, và làm dơ vật thánh ta; chẳng phân biệt 
cái ǵ là thánh, cái ǵ là tục; chẳng khiến người ta phân biệt cái ǵ là ô uế, 
cái ǵ là tinh sạch; nhắm mắt chẳng xem các ngày sa-bát ta, và ta bị nói phạm 
giữa chúng nó.
27. Các quan trưởng ở giữa nó giống như muông sói xé mồi, chỉ lo làm đổ máu, làm 
mất linh hồn, để được lợi bất nghĩa.
28. Các tiên tri nó dùng bùn không pha rơm trét cho chúng nó; thấy sự hiện thấy 
giả dối, và bói khoa sự dối cho chúng nó, mà rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy, 
song Đức Giê-hô-va chưa hề phán.
29. Dân trong đất làm sự bạo ngược, phạm sự trộm cướp, khuấy rối kẻ nghèo nàn 
thiếu thốn, và ức hiếp người trú ngụ cách trái phép.
30. Ta đă t́m một người trong ṿng chúng nó, đặng xây lại tường thành, v́ đất mà 
đứng chỗ sứt mẻ trước mặt ta, hầu cho ta không hủy diệt nó; song ta chẳng t́m 
được một ai.
31. Vậy nên ta đổ cơn thạnh nộ trên chúng nó, và lấy lửa giận của ta đốt chúng 
nó; ta đă làm cho đường lối của chúng nó lại đổ về trên đầu chúng nó, Chúa 
Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 23   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, có hai người đờn bà, là con gái của một mẹ.
3. Chúng nó hành dâm trong Ê-díp-tô, chúng nó hành dâm từ khi c̣n trẻ; tại đó vú 
chúng nó bị bóp, tại đó chúng nó mất hoa con gái.
4. Đứa chị tên là Ô-hô-la, và đứa em trên là Ô-hô-li-ba. Chúng nó trở nên thuộc 
về ta, và đẻ con trai con gái. Ô-hô-la, tức là Sa-ma-ri; c̣n Ô-hô-li-ba, tức là 
Giê-ru-sa-lem.
5. Ô-hô-la hành dâm khi nó đă thuộc về ta, theo t́nh nhơn nó, là dân A-si-ri, kẻ 
lân cận nó,
6. Mặc áo tím, làm tổng đốc và quan cai trị, thảy đều là trai tráng đẹp đẽ, hay 
cỡi ngựa.
7. Nó hành dâm với những người con trai tốt nhứt của A-si-ri; nó tự làm ô uế với 
những kẻ mà nó yêu thương, cùng mọi thần tượng của chúng nó.
8. Nó không chừa sự hành dâm mà nó đă đem đến từ Ê-díp-tô, là nơi người ta đă 
làm nhục nó lúc c̣n trẻ, đă làm cho nó mất hoa con gái, và đổ sự hành dâm của 
chúng nó trên nó.
9. Vậy nên, ta đă phó nó trong tay t́nh nhơn nó, tức là trong tay những người 
A-si-ri, mà nó đă thương yêu.
10. Chúng nó lột truồng nó, đă bắt lấy con trai con gái nó, và làm cho chính 
ḿnh nó phải chết v́ gươm. Nó đă trở nên một câu chuyện trong đám đờn bà; v́ 
chúng nó đă làm thành sự phán xét trên nó.
11. Em gái nó là Ô-hô-li-ba đă xem thấy mọi việc đó; dầu vậy, nó buông ḿnh theo 
t́nh dục hơn chị nó; và sự hành dâm của nó lại c̣n nhiều hơn.
12. Nó phải ḷng những người A-si-ri, tổng đốc, và quan cai trị, tức là kẻ lân 
cận nó, ăn mặc sang trọng, hay cỡi ngựa, thảy đều là trai tráng đẹp đẽ.
13. Ta thấy nó cũng đă tự làm ô uế, và cả hai chị em cùng theo một đàng.
14. Khi nó thấy những người được vẽ trên vách thành, những h́nh tượng của người 
Canh-đê sơn son, th́ nó lại cùng thêm sự hành dâm nó.
15. Chúng nó thắt dây lưng và bịt khăn trên đầy thả ḷng xuống, thảy đều có dáng 
các quan trưởng. Chúng nó làm ra như người Ba-by-lôn trong Canh-đê, là quê hương 
ḿnh.
16. Nó phải ḷng chúng, mới thấy lần đầu, th́ sai sứ giả đến cùng chúng nó trong 
Canh-đê.
17. Những người Ba-by-lôn đến cùng nó lên giường âu yếm, và chúng nó làm ô uế nó 
bởi sự hành dâm ḿnh. Nó cũng tự làm ô uế với chúng; rồi th́ ḷng nó sinh chán.
18. Nó đă tỏ bày sự dâm ô ḿnh, đă lột truồng ḿnh ra, th́ ḷng ta cũng chán nó, 
như đă chán chị nó.
19. Nhưng nó thêm nhiều sự hành dâm, nhớ lại những ngày nó c̣n trẻ và thuở nó 
hành dâm trong đất Ê-díp-tô.
20. Nó phải ḷng những kẻ yêu ḿnh, những kẻ ấy thịt như thịt lừa, dâm quá như 
ngựa.
21. Ấy vậy, mầy đă nhắc lại sự dâm dục hồi c̣n trẻ, lúc mà những người Ê-díp-tô 
bóp vú mầy, và làm mất hoa con gái mầy.
22. Vậy nên, hỡi Ô-hô-li-ba, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ giục những 
t́nh nhơn mầy mà ḷng mầy đă chán, dấy nghịch cùng mầy, và ta đem chúng nó đến 
từ mọi bề nghịch cùng mầy:
23. tức là những người Ba-by-lôn, hết thảy người Canh-đê, Phê-cốt, Soa, và Coa, 
và hết thảy người A-si-ri với chúng nó, là trai tráng đẹp đẽ, mọi tổng đốc và 
quan cai trị, quan trưởng và người có danh tiếng, hết thảy đều cỡi ngựa.
24. Chúng nó đem những khí giới, những xe đánh giặc, xe chở đồ, và một đoàn dân 
đông đến nghịch cùng mầy; chúng nó dùng những thuẫn, những mộc, và đội măo trụ 
mà vây chung quanh mầy. Ta sẽ giao sự phán xét cho chúng nó, và chúng nó sẽ xét 
đoán mầy theo luật pháp ḿnh.
25. Ta sẽ thả sự ghen của ta ra nghịch cùng mầy, và chúng nó đăi mầy bằng sự 
giận dữ. Chúng nó sẽ cắt mũi và tay mầy; kẻ c̣n sót lại trong mầy sẽ ngă bởi 
gươm. Chúng nó sẽ bắt con trai con gái mầy; kẻ c̣n sót lại trong mầy sẽ bị nuốt 
bởi lửa.
26. Chúng nó bóc lột áo xống mầy, và cướp lấy đồ châu báu mầy.
27. Vậy ta sẽ dứt sự hành dâm mầy và thói xấu hổ mầy đă đem đến từ đất Ê-díp-tô, 
đến nỗi mầy sẽ không ngước mắt ngó chúng nó, và không nhớ đến Ê-díp-tô nữa.
28. V́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó mầy trong tay những kẻ mà mầy 
ghét, trong tay những kẻ mà ḷng mầy đă chán.
29. Chúng nó sẽ lấy sự hờn ghét đăi mầy, cướp lấy công lao mầy, để mầy trần 
truồng, bị bóc lột hết cả; như vậy sẽ tỏ điều xấu hổ về sự hành dâm, tội ác và 
dâm đăng của mầy ra.
30. Mầy sẽ bị đăi như vậy, v́ mầy đă hành dâm cùng các dân, đă tự làm ô uế với 
thần tượng chúng nó.
31. Mầy đă đi theo đường của chị mầy; vậy nên ta sẽ để chén của nó vào trong tay 
mầy.
32. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Mầy sẽ uống chén của chị mầy, là chén sâu và 
rộng, chứa được rất nhiều; mầy sẽ bị chê cười nhạo báng.
33. Mầy sẽ phải đầy sự say sưa và buồn rầu; v́ chén của chị Sa-ma-ri mầy, là 
chén gở lạ và hoang vu.
34. Mầy sẽ uống chén ấy, sẽ uống cạn, sẽ lấy răng gặm các mảnh nó, và mầy tự xé 
vú mầy. V́ ta đă phán, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
35. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ mầy đă quên ta, bỏ ta ra sau lưng 
mầy, vậy mầy cũng hăy chịu h́nh phạt về sự tà dục hành dâm của mầy!
36. Vả, Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hỡi con người, ngươi há không xét đoán 
Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba hay sao? Hăy tỏ cho chúng nó biết những sự gớm ghiếc của 
ḿnh.
37. Chúng nó đă phạm tội tà dâm, và có máu nơi tay; chúng nó đă phạm tội tà dâm 
với những thần tượng ḿnh; rất đổi những con cái chúng nó đă sanh cho ta, chúng 
nó cũng khiến qua trên lửa đặng cho thiêu nuốt hết!
38. Chúng nó lại c̣n làm sự nầy nghịch cùng ta: cùng trong một ngày chúng nó đă 
làm ô uế nơi thánh ta, và phạm các ngày sa-bát ta;
39. sau khi đă giết con cái ḿnh dâng cho thần tượng, trong ngày ấy chúng nó vào 
trong nơi thánh ta đặng làm ô uế! Ấy đó là điều chúng nó đă làm giữa nhà ta!
40. Vả lại, các ngươi đă sai sứ giả gọi những người từ phương xa đến cùng ḿnh, 
nầy, chúng nó đă đến; mầy đă tắm rửa v́ chúng nó, vẽ con mắt và giồi đồ trang 
sức.
41. Mầy ngồi trên giường sang trọng, trước giường dựng một các bàn, nơi bàn đó 
mầy đă đặt hương ta và dầu ta.
42. Nơi nó có tiếng ồn ào của đám đông ở rỗi; và có người hèn hạ cùng người say 
sưa từ nơi đồng vắng được đem đến; chúng nó đeo ṿng nơi tay hai chị em, và đội 
mũ rực rỡ trên đầu.
43. Ta bèn phán về kẻ đă già trong sự tà dâm rằng: Bây giờ chúng sẽ gian dâm với 
nó, và nó với chúng.
44. Chúng đến cùng nó như đến cùng điếm đĩ; th́ chúng đến cùng Ô-hô-la và 
Ô-hô-li-ba, là những đờn bà tà dâm, cũng vậy.
45. Vả, ấy là những người công b́nh sẽ đoán xét chúng nó, như người ta đoán xét 
đờn bà ngoại t́nh và đờn bà làm đổ máu; v́ chúng nó là ngoại t́nh, và có máu 
trong tay chúng nó.
46. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ đem một đám đông lên nghịch cùng 
chúng nó, và sẽ phó chúng nó bị ném đi ném lại và bị cướp bóc.
47. Đám đông ấy sẽ lấy đá đánh đập chúng nó, và lấy gươm đâm chúng nó; giết con 
trai con gái chúng nó, và lấy lửa đốt nhà chúng nó.
48. Như vậy ta sẽ làm cho hết sự tà dâm trong đất, hầu cho mọi đờn bà được học 
biết không làm theo sự dâm dục của các ngươi.
49. Người ta sẽ đổ lại sự dâm dục các ngươi trên chính ḿnh các ngươi; các ngươi 
sẽ mang tội lỗi về thần tượng ḿnh, và các ngươi sẽ biết rằng ta là Chúa 
Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 24   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ chín, ngày mồng mười, có lời Đức Giê-hô-va phán cho ta rằng:
2. Hỡi con người, nước ghi chép tên ngày nầy, chính ngày nầy; cũng chính ngày 
nầy vua Ba-by-lôn đến gần thành Giê-ru-sa-lem.
3. Hăy nói một lời thí dụ cho nhà bạn nghịch ấy, và rằng: Chúa Giê-hô-va phán 
như vầy: Hăy đặt nồi, hăy đặt, và đổ nước vào.
4. Hăy để những tấm thịt vào, là hết thảy những tấm thịt tốt, những đùi và vai, 
và làm cho đầy xương rất tốt.
5. Hăy chọn con rất tốt trong bầy, và v́ xương chất củi dưới nồi. Hăy làm cho 
sôi sục sục lên, để nấu xương trong nồi.
6. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành hay đổ máu, khốn cho nồi 
bị ten rét mà ten rét chưa trừ hết! Hăy lấy từ tấm từ tấm ra cho hết, không có 
bắt thăm.
7. V́ máu mà nó đă đổ ra c̣n ở giữa nó; nó đă đổ máu ấy trên vầng đá láng bóng; 
chớ không đổ trên đất đặng cho bụi che lấp đi.
8. Ấy là để là cho cơn giận nổi lên và báo thù, mà ta đổ máu nó trên vầng đá 
láng bóng; đến nỗi nó không có thể che đậy được.
9. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn cho thành hay đổ máu! Ta cũng sẽ 
chất một đống củi lớn.
10. Hăy chất củi, làm cho lửa hực lên, làm cho rục thịt, cho đặc nước, và cho 
cháy đi.
11. Đoạn, hăy đặt nồi không trên những than lửa đỏ, hầu cho đồng nó cháy lên, 
cho sự ô uế nó tan ra ở bề trong, và cho ten rét của nó sạch hết.
12. Nó làm việc mệt nhọc; nhưng ten rét quá lắm của nó c̣n chưa ra khỏi; dầu bỏ 
ten rét nó vào lửa cũng không ra!
13. Sự ô uế mầy là tà dâm: v́ ta đă tẩy sạch mầy và mầy không trở nên sạch, th́ 
mầy sẽ không được chùi sự dơ bẩn của ḿnh nữa, cho đến chừng nào ta đă làm cho 
cơn giận của ta được yên nghỉ đối với mầy.
14. Ta là Đức Giê-hô-va, ta đă phán; sự đó sẽ xảy đến, và ta sẽ làm thành. Ta sẽ 
không lui đi, không tiếc, không ăn năn. Người ta sẽ xét đoán mầy theo đường lối 
mầy và theo việc làm mầy, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
16. Hỡi con người, nầy, th́nh ĺnh ta sẽ cất khỏi ngươi sự con mắt ngươi ưa 
thích; nhưng ngươi sẽ chẳng than thở, chẳng khóc lóc, và nước mắt ngươi chẳng 
chảy ra.
17. Hăy than thầm; chớ phát tang cho những kẻ chết; khá vấn cái khăn trên đầu 
ngươi. Chớ che môi lại, và đừng ăn bánh của kẻ khác.
18. Sớm mai ta nói cùng dân sự; đến chiều th́ vợ ta chết. Sáng bữa sau ta làm 
theo như lời đă phán cho ta.
19. Bấy giờ dân sự nói cùng ta rằng: Ngươi không tỏ cho chúng ta về cách ngươi 
làm như vậy là nghĩa ǵ sao?
20. Ta trả lời rằng: Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
21. Hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ làm ô 
uế nơi thánh ta, là nơi các ngươi lấy làm khoe khoang về quyền năng ḿnh, mắt 
các ngươi ưa thích, ḷng các ngươi thương xót; và những con trai con gái các 
ngươi mà các ngươi đă để lại, sẽ ngă bởi gươm.
22. Bấy giờ các ngươi sẽ làm như ta đă làm; các ngươi không che môi, không ăn 
bánh của kẻ khác.
23. Khăn các ngươi sẽ để yên trên đầu, giày các ngươi sẽ mang luôn dưới chơn; 
các ngươi không kêu thương, không khóc lóc; song sẽ bị hao ṃn v́ cớ tội ác 
ḿnh, và các ngươi cùng nhau than thở.
24. Ê-xê-chi-ên sẽ là một dấu hiệu cho các ngươi, phàm sự nó đă làm, th́ các 
ngươi cũng sẽ làm. Khi mọi sự đó xảy đến, các ngươi sẽ biết ta là Chúa 
Giê-hô-va.
25. Hỡi các ngươi, về ngươi th́, ngày nào ta sẽ cất khỏi chúng nó sức mạnh, sự 
vui mừng, sự vinh hiển, sự ưa thích của mắt chúng nó, sự ḷng chúng nó yêu mến, 
con trai và con gái chúng nó,
26. trong ngày đó sẽ có kẻ trốn đến báo tin cho tai ngươi nghe.
27. Trong ngày đó, miệng ngươi sẽ mở ra cùng một lúc với miệng của kẻ trốn. 
Ngươi sẽ nói, và không bị câm nữa: ngươi sẽ là một dấu hiệu cho chúng nó, và 
chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 25   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy xây mặt về con cái Am-môn, và nói tiên tri nghịch cùng 
chúng nó.
3. Hăy nói cùng con cái Am-môn rằng: Hăy nghe lời của Chúa Giê-hô-va. Chúa 
Giê-hô-va phán như vầy: V́ ngươi có nói rằng: Hay! hay! về nơi thánh ta, khi nó 
bị ô uế, về đất Y-sơ-ra-ên, khi nó bị làm nên hoang vu, cùng về nhà Giu-đa, khi 
nó bị bắt làm phu tù,
4. bởi cớ đó, nầy, ta sẽ phó ngươi cho các con cái phương đông làm cơ nghiệp. 
Chúng nó sẽ đóng trại giữa ngươi, và cất nhà ḿnh ở đó; chúng nó sẽ ăn trái 
ngươi và uống sữa ngươi.
5. Ta sẽ khiến Ra-ba làm chuồng lạc đà, và con cái Am-môn làm chỗ bầy vật nằm, 
th́ các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
6. V́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: bởi ngươi đă vỗ tay, đập chơn, đầy ḷng khinh 
dể và vui vẻ về đất Y-sơ-ra-ên,
7. bởi cớ đó, mầy, ta đă giá tay ta trên ngươi. Ta sẽ phó ngươi làm mồi cho các 
nước; ta sẽ trừ ngươi ra khỏi các dân; ta sẽ diệt ngươi khỏi các nước; ta sẽ hủy 
hoại ngươi, và ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
8. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ Mô-áp và Sê-i-rơ có nói rằng: Nầy, nhà Giu-đa 
cũng như các nước khác,
9. bởi cớ đó, nầy, ta sẽ phá các thành của bờ cơi người Mô-áp, tức là hết thảy 
các thành trong đất chúng nó làm vinh hiển cho xứ ấy, là thành Bết-Giê-si-mốt, 
thành Ba-anh-Mê-ôn, và thành Ki-ri-a-ta-im.
10. Ta sẽ phó xứ nầy và xứ của người Am-môn cho các con trai phương đông. Ta sẽ 
ban những xứ nầy cho chúng nó làm sản nghiệp, hầu cho con cái Am-môn không được 
ghi nhớ giữa các nước nữa.
11. Ta cũng sẽ làm sự phán xét trên Mô-áp; và chúng nó sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va.
12. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ dân Ê-đôm đă làm sự báo thù nghịch cùng nhà 
Giu-đa, và nhơn báo thù nhà ấy mà phạm tội nặng, nên Chúa Giê-hô-va phán như 
vầy:
13. Ta sẽ giá tay nghịch cùng Ê-đôm, sẽ dứt người và vật ở đó; ta sẽ làm thành 
ấy nên hoang vu; từ Thê-man đến Đê-đan, chúng nó sẽ ngă bởi gươm.
14. Ta sẽ làm sự báo thù ta trên Ê-đôm, bởi tay của dân Y-sơ-ra-ên ta; dân ấy sẽ 
đăi dân Ê-đôm theo như sự thạnh nộ và tức giận của ta. Bấy giờ chúng nó sẽ biết 
sự báo thù của ta là thế, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ dân Phi-li-tin làm sự báo thù, làm sự báo 
thù theo ḷng ghen ghét vô cùng mà muốn hủy diệt,
16. bởi đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ giá tay trên các người 
Phi-li-tin; sẽ dứt những người Cơ-rết; và ta sẽ làm cho chết hết những kẻ c̣n 
sót lại ở trên mé biển.
17. Ta sẽ làm sự báo thù lớn nghịch cùng chúng nó, mà dùng cơn giận quở trách 
chúng nó; chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ làm sự báo thù nghịch 
cùng chúng nó.
Ê-xê-chi-ên 26   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười một, ngày mồng một đầu tháng, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta 
rằng:
2. Hỡi con người, Ty-rơ đă nói về Giê-ru-sa-lem rằng: Hay! hay! thành làm cửa 
của các dân, đă vỡ nát rồi! Nó đă trở về cùng ta; rày nó đă trở nên hoang vu, 
th́ ta sẽ được đầy dẫy.
3. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán rằng: Hỡi Ty-rơ! Nầy, ta địch cùng mầy. Ta sẽ 
khiến nhiều nước dấy nghịch cùng mầy, như sóng biển dấy lên vậy.
4. Chúng nó sẽ hủy phá những vách thành Ty-rơ, và Xô-đổ tháp của nó; ta sẽ cào 
bụi, khiến nó làm một vầng đá sạch láng.
5. Nó sẽ làm một chỗ người ta phơi lưới ở giữa biển; v́ Chúa Giê-hô-va phán 
rằng: Ta đă phán. Nó sẽ làm mồi của các nước.
6. Các con gái nó ở đồng ruộng nó sẽ bị giết bằng gươm; và chúng nó sẽ biết rằng 
ta là Đức Giê-hô-va.
7. V́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ đem Nê-bu-cát-nết-sa, vua 
Ba-by-lôn, là vua của các vua, với những ngựa, những xe, những lính kỵ, cùng đạo 
quân, và dân đông từ phương bắc đến nghịch cùng thành Ty-rơ.
8. Người sẽ dùng gươm giết các con gái của mầy ngoài đồng ruộng, sẽ lập đồn đắp 
lũy, và dấy cái thuẫn lên nghịch cùng mầy.
9. Người sẽ đặt máy phá vách thành, và dùng búa phá các tháp mầy.
10. Ngựa của người nhiều lắm đến nỗi bụi đất che mầy đi. Các vách thành mầy rúng 
động v́ tiếng của lính kỵ, của xe chở đồ, và của xe binh, khi kẻ nghịch vào bởi 
các cửa mầy, như vào trong một thành đă bị thua.
11. Người sẽ dẵm vó ngựa trên các đường phố mầy; người sẽ giết dân mầy bằng 
gươm, và những trụ của sức mạnh mầy sẽ bị ném xuống đất.
12. Đoạn, quân nghịch mầy sẽ lấy của báu mầy, cướp hàng hóa mầy, phá đổ vách 
thành mầy; chúng nó sẽ phá đền đài mầy, và quăng những đá, gỗ, và bụi đất của 
mầy dưới nước.
13. Ta sẽ làm cho dứt tiếng hát của mầy, và người ta sẽ không c̣n nghe tiếng đờn 
cầm của mầy nữa.
14. Ta sẽ khiến mầy nên vầng đá sạch láng; mầy sẽ nên một chỗ người ta phơi 
lưới, và không được cất dựng lại nữa; v́ ta là Đức Giê-hô-va đă phán, Chúa 
Giê-hô-va phán vậy.
15. Chúa Giê-hô-va phán cùng thành Ty-rơ rằng: Nghe tiếng mầy đổ xuống, kẻ bị 
thương rên siếc, sự giết lát làm ra giữa mầy, các cù lao nghe vậy, há chẳng rúng 
động sao?
16. Hết thảy các quan trưởng miền biển điều xuống khỏi ngai ḿnh; cổi áo chầu 
ra, và lột bỏ những áo thêu. Họ như là mang lấy sự run rẩy và ngồi xuống đất. Họ 
sẽ sợ sệt luôn, và lấy làm lạ v́ cớ mầy.
17. Họ sẽ v́ mầy hát bài ca thương, mà nói cùng mầy rằng: Hỡi thành có tiếng, 
vững bền ở giữa biển, là chỗ người đi biển ở; nó với dân cư nó làm cho hết thảy 
người ở đó khiếp sợ, mầy bị hủy phá là dường nào!
18. Bây giờ các cù lao sẽ run rẩy nơi ngày mầy đổ nát, và các cù lao trong biển 
sẽ kinh khiếp về sự diệt mất của mầy!
19. Thật thế, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta sẽ làm cho mầy ra thành hoang 
vu, như những thành không có dân ở; khi ta sẽ khiến sóng của vực sâu phủ lên 
trên mầy, và các ḍng nước lớn che lấp mầy,
20. bấy giờ ta sẽ khiến mầy với những kẻ đă xuống hố đến cùng dân đời xưa. Ta sẽ 
khiến mầy ở trong những nơi rất thấp của đất, trong những chỗ hoang vu từ đời 
xưa, với những kẻ đă xuống hố, hầu cho mầy không có dân ở nữa; song ta sẽ đặt 
vinh hiển trong đất người sống.
21. Ta sẽ dùng mầy làm một sự kinh khiếp. Mầy sẽ không c̣n nữa; và dầu người ta 
t́m mầy, sẽ không hề thấy mầy nữa, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 27   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy làm một bài ca thương về thành Ty-rơ.
3. Hăy nói cùng thành Ty-rơ rằng: Hỡi mầy là thành nơi cửa biển, buôn bán với 
các dân của nhiều cù lao, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Ty-rơ, mầy có nói: Ta 
là sự tốt đẹp trọn vẹn.
4. Bờ cơi mầy ở trong ḷng biển; những kẻ xây dựng mầy đă làm cho mầy nên một 
thành tốt đẹp trọn vẹn.
5. Họ đă ghép ván của mầy bằng cây tùng của Sê-nia; lấy cây bách của Li-ban đặng 
làm cột buồm cho mầy;
6. làm chèo của mầy bằng cây dẽ của Ba-san; lấy cây hoàng dương của đảo Kít-tim 
làm ván lợp, và cẩn bằng ngà voi.
7. Vải gai mịn có thêu của Ê-díp-tô dùng mà buồm, để làm cờ xí cho mầy; vải sắc 
tía sắc xanh của các cù lao Ê-li-sa dùng làm màn cháng.
8. Dân cư Si-đôn và A-vát là bạn chèo của mầy; hỡi Ty-rơ, những người khôn ngoan 
trong mầy làm kẻ cầm lái của mầy.
9. Các trưởng lăo ở Ghê-banh và người thông thái xứ ấy, th́ mầy dùng để tu bổ 
chỗ hư hỏng của tàu mầy. Hết thảy những tàu biển cùng thủy thủ nó đều ở trong 
mầy, đặng đổi lấy hàng hóa của mầy.
10. Người Phe-rơ-sơ, người Lút, người Phút, làm lính chiến trong đạo binh mầy. 
Chúng nó treo thuẫn và măo trụ trong mầy, và làm nên sự đẹp đẽ của mầy.
11. Những người A-vát cùng quân lính riêng của mầy đầy vách thành mầy, những 
người mạnh mẽ th́ ở trên các tháp; chúng nó treo thuẫn chung quanh vách thành 
mầy, và làm sự đẹp đẽ trọn vẹn của mầy.
12. Những dân ở thành Ta-rê-si buôn bán với mầy đủ mọi thứ của cải, lấy bạc, 
sắt, thiếc, ch́ mà đổi đồ hàng hóa của mầy.
13. Các dân ở Gia-van, ở Tu-banh và ở Mê-siếc buôn bán với mầy, đổi lấy hàng hóa 
mầy th́ cho mầy những tôi mọi và đồ bằng đồng.
14. Những người của nhà Tô-ga-ma đem ngựa, ngựa chiến, la, mà đổi lấy đồ hàng 
của mầy.
15. Những người Đê-đan là bạn hàng mầy; sự buôn bán của nhiều cù lao ở trong tay 
mầy, đem cho mầy những ngà voi, gỗ mun, mà đổi lấy hàng hóa.
16. V́ tay mầy chế tạo rất nhiều, nên Sy-ri buôn bán với mầy, và lấy bích ngọc, 
vải điều, đồ thêu, vải gai mịn, san hô, hồng ngọc mà đổi hàng của mầy.
17. Giu-đa và đất Y-sơ-ra-ên cũng buôn bán với mầy, th́ đem cho mầy những lúa ḿ 
ở Min-nít, bánh ngọt, mật ong, dầu, va nhũ hương.
18. Bởi tay mầy chế ra nhiều đồ, của cải đầy dẫy, nên Đa-mách lấy rượu nho ở Hên 
bôn và lông chiên trắng của nó mà đổi chác cùng mầy.
19. Vê-đan và Gia-van đem chỉ đổi lấy hàng hóa mầy; trong hàng hóa đó có sắt 
sáng, nhục quế, và xương bồ.
20. Những người ở Đê-đan buôn với mầy bằng thứ vải hoa để phủ trên ngựa.
21. Người A-rạp vào mọi quan trưởng ở Kê-đa buôn bán với mầy, và đem đến cho mầy 
những chiên con, chiên đực, và dê đực.
22. Những con buôn ở Sê-ba và Ra-a-ma buôn bán với mầy, lấy mọi thứ hương tốt 
nhứt, mọi thứ đá quí và vàng mà đổi lấy hàng hóa mầy.
23. Ha-ran, Can nê, và Ê-đen, những con buôn ở Sê-ba, A-si-ri và Kin-mát đều là 
bạn hàng của mầy;
24. chúng nó buôn bán với mầy những làng trọng thể: áo màu tía và thêu, vải quí 
báu xếp trong ḥm, dây bện, ván bằng gỗ hương bách.
25. Các thuyền Ta-rê-si v́ sự buôn mầy mà chở chạy, và mầy được đầy dẫy cùng 
được vinh hiển cả thể trong ḷng biển.
26. Nhưng mà những tay chèo của mầy đă dẫn mầy trên nước lớn, và gió đông đă đập 
nát mầy trong ḷng biển.
27. Đến ngày hủy phá của mầy, th́ của cải, hàng hóa, việc buôn bán của mầy, thủy 
thủ và kẻ coi hoa tiêu của mầy, những kẻ tu bổ chỗ hư hỏng của tàu bè mầy, những 
kẻ buôn bán hàng hóa với mầy, hết thảy lính chiến của mầy ở trong mầy, cả đoàn 
dân đông đầy giữa mầy, đều sẽ ngă xuống trong ḷng biển.
28. Bởi tiếng kêu của những kẻ coi hoa tiêu, các xóm chung quanh mầy đều run 
rẩy;
29. hết thảy những kẻ cầm chèo, hết thảy những thủy thủ, hết thảy những kẻ coi 
hoa tiêu ngoài biển đều xuống hỏi tàu ḿnh và đứng vững trên đất.
30. Chúng nó sẽ làm vang tiếng than khóc mầy, và trổi tiếng kêu la cay đắng v́ 
mầy; chúng nó ném bụi trên đầu ḿnh, và lăn lóc trong tro.
31. Chúng nó sẽ cạo đầu v́ chớ mầy, và thắt lưng bằng bao gai, trong ḷng đau 
đớn, v́ mầy khóc lóc cay đắng.
32. Nhơn ḷng chúng nó đau thương, th́ làm một bài ca thương về mầy, và than 
rằng: Ai sánh với thành Ty-rơ, là thành bây giờ đă vắng lặng giữa biển?
33. Thuở hàng hóa mầy ra khỏi các biển, mầy làm cho no đủ nhiều dân. Bởi sự giàu 
có và sự buôn bán của mầy thạnh vượng lên, th́ làm giàu cho các vua trên đất.
34. Bây giờ, ḱa mầy đă tan nát v́ các biển, ch́m dưới nước sâu; sự buôn bán và 
dân chúng của mầy đều cùng mầy ch́m đắm.
35. Hết thảy những dân ở các cù lao đều v́ cớ mầy mà sững sờ, các vua chúng nó 
đều khiếp sợ, sắc mặt lo buồn.
36. Những con buôn lập nghiệp trong các dân xỉ báng mầy. Mầy đă trở nên cớ kinh 
khiếp, đời đời mầy sẽ không c̣n nữa!
Ê-xê-chi-ên 28   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy nói cùng vua Ty-rơ rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ 
ḷng ngươi đă tự cao, và ngươi nói rằng: Ta là một v́ thần, ta ngồi trên ngai 
Đức Chúa Trời, ở giữa các biển; dầu ḷng ngươi tự cao lên bằng ḷng Đức Chúa 
Trời, ngươi c̣n là loài người, không phán là Đức Chúa Trời.
3. Nầy, ngươi khôn hơn Đa-ni-ên; chẳng có sự mầu nhiệm nào giấu kín khỏi ngươi!
4. Ngươi đă được giàu có bởi sự khôn ngoan và thông sáng của ḿnh; đă thâu chứa 
vàng bạc trong kho tàng ngươi;
5. bởi sự thông thạo và sự buôn bán ḿnh, th́ ngươi đă làm cho sự giàu có ḿnh 
tấn tới. Vậy ḷng ngươi đă đem lên v́ cớ sự giàu có của ngươi.
6. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ ḷng ngươi tự cao lên lười biếng 
ḷng Đức Chúa Trời,
7. cho nên, nầy, ta sẽ khiến những người ngoại quốc hung bạo hơn hết trong các 
dân, nổi dậy nghịch cùng ngươi; chúng nó sẽ rút gươm nghịch cùng sự khôn sáng 
hoa mĩ ngươi, và làm ô uế sự vinh hiển ngươi.
8. Chúng nó sẽ xô ngươi xuống hầm hố và ngươi sẽ chết trong ḷng biển, như người 
bị giết.
9. Trước mặt kẻ giết ngươi, ngươi c̣n dám nói rằng: Ta là Đức Chúa Trời chăng? 
Khi ấy ngươi ở trong tay của kẻ làm ngươi bị thương, th́ ngươi là loài người, 
chẳng phải là Đức Chúa Trời.
10. Ngươi sẽ chết bởi tay người ngoại quốc như những kẻ chưa chịu cắt b́. Chúa 
Giê-hô-va phán rằng: Ấy chính ta đă nói như vậy.
11. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta như vầy:
12. Hỡi con người, hăy làm một bài ca thương về vua Ty-rơ và nói cùng người 
rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi gồm đủ tất cả, đầy sự khôn ngoan, tốt 
đẹp trọn vẹn.
13. Ngươi vốn ở trong Ê-đen, là vườn của Đức Chúa Trời. Ngươi đă có đầy ḿnh mọi 
thứ ngọc báu, là ngọc mă năo, ngọc vàng lợt, ngọc kim cương, ngọc thủy thương, 
ngọc sắc biếc, ngọc bích, ngọc sắc chàm, ngọc sắc xanh, ngọc thông hành, cùng 
vàng nữa. Nghề làm ra trống cơm ống sáo thuộc về ngươi; từ ngày ngươi mới được 
dựng nên đă sắm sẵn rồi.
14. Ngươi là một chê-ru-bin được xức dầu đương che phủ; ta đă lập ngươi lên trên 
ḥn núi thánh của Đức Chúa Trời; ngươi đă đi dạo giữa các ḥn ngọc sáng như lửa.
15. Đường lối ngươi trọn vẹn từ ngày ngươi được dựng nên, cho đến lúc thấy sự 
gian ác trong ngươi.
16. Nhơn ngươi buôn bán thạnh lợi, ḷng ngươi đầy sự hung dữ, và ngươi đă phạm 
tội; vậy ta đă xô ngươi như là vật ô uế xuống khỏi núi Đức Chúa Trời; hỡi 
chê-ru-bin che phủ kia, ta diệt ngươi giữa các ḥn ngọc sáng như lửa!
17. Ḷng ngươi đă kiêu ngạo v́ sự đẹp ngươi, và sự vinh hiển của ngươi làm cho 
ngươi làm hư khôn ngoan ḿnh. Ta đă xô ngươi xuống đất, đặt ngươi trước mặt các 
vua, cho họ xem thấy.
18. Ngươi đă làm ô uế nơi thánh ngươi bởi tội ác ngươi nhiều quá và bởi sự buôn 
bán ngươi không công b́nh; ta đă khiến lửa ra từ giữa ngươi; nó đă thiêu nuốt 
ngươi, và ta đă làm cho ngươi trở nên tro trên đất, trước mặt mọi kẻ xem thấy.
19. Hết thảy những kẻ biết ngươi trong các dân sẽ sững sờ về ngươi. Ḱa, ngươi 
đă trở nên một cớ kinh khiếp, đời đời ngươi sẽ không c̣n nữa.
20. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
21. Hỡi con người, hăy xây mặt về phía Si-đôn, và nói tiên tri nghịch cùng nó.
22. Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Si-đôn, nầy, ta nghịch 
cùng mầy; ta muốn làm sáng danh ta ở giữa mầy. Chúng nó sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va, khi ta sẽ làm sự phán xét và tỏ ḿnh ra thánh trong nó.
23. Ta sẽ sai ôn dịch đến giữa nó, và sẽ có máu trong các đường phố nó. Những kẻ 
bị thương sẽ ngă xuống giữa nó, v́ gươm sẽ đổ trên nó tư bề; và chúng nó sẽ biết 
rằng ta là Đức Giê-hô-va.
24. Vừa lúc ấy, sẽ không có chà chuôm hay châm chích, gai gốc hay đau đớn cho 
nhà Y-sơ-ra-ên, trong những kẻ ở chung quanh dân ấy, và đăi dân ấy cách khinh 
dể. Bấy giờ chúng nó sẽ biết ta là Chúa Giê-hô-va.
25. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi ta đă nhóm nhà Y-sơ-ra-ên lại từ giữa các 
dân mà chúng nó đă bị tan tác trong đó, và ta đă tỏ ḿnh ra thánh giữa chúng nó 
trước mắt các dân, th́ chúng nó sẽ ở trong đất ḿnh mà ta đă ban cho tôi tớ ta 
là Gia-cốp.
26. Chúng nó sẽ ở đó yên ổn, sẽ cất nhà và trồng vườn nho. Chúng nó sẽ ở đó yên 
ổn, khi ta đă làm sự phán xét ta nghịch cùng những kẻ ở chung quanh chúng nó, là 
kẻ đăi chúng nó cách khinh dể; và chúng nó sẽ biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa 
Trời ḿnh.
Ê-xê-chi-ên 29   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười, tháng mười, ngày mười hai, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta 
như vầy:
2. Hỡi con người, hăy xây mặt nghịch cùng Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, mà nói tiên 
tri nghịch cùng người và cùng cả Ê-díp-tô nữa.
3. Hăy nói mà rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, 
nầy, ta nghịch cùng ngươi, ngươi là con vật quái gở nằm giữa các sông ḿnh, mà 
rằng: Sông của ta thuộc về ta, ấy là ta đă làm nên cho ta.
4. Ừ, ta sẽ đặt những móc trong hai hàm ngươi, và khiến những có trong các sông 
ngươi đầu dính nơi vảy ngươi. Ta sẽ kéo ngươi lên khỏi giữa các sông ngươi, 
ngươi và những cá trong các sông ngươi đă dính nơi vảy ngươi nữa.
5. Ta sẽ quăng ngươi vào đồng vắng, ngươi và những cá của các sông ngươi. Ngươi 
sẽ ngă xuống trên mặt đồng ruộng; sẽ chẳng được lượm lại, cũng chẳng được thâu 
lại. Ta đă phó ngươi làm đồ ăn cho loài thú dưới đất và loài chim trên trời.
6. Bấy giờ hết thảy dân cư Ê-díp-tô sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, v́ chúng nó đă 
nên cây gậy bằng sậy cho nhà Y-sơ-ra-ên.
7. Khi chúng nó cầm lấy ngươi bởi tay, th́ ngươi tự găy, và làm xây xác chúng nó 
cả vai; khi chúng nó nương dựa trên ngươi, th́ ngươi tự giập ra, và làm cho lưng 
chúng nó xiêu tó.
8. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ đem gươm đến trên ngươi, và 
sẽ dứt khỏi ngươi cả người và loài thú.
9. Đất Ê-díp-tô sẽ trở nên nơi hoang vu vắng vẻ; và chúng nó sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va. V́ Pha-ra-ôn có nói rằng: Sông thuộc về ta, ấy là ta đă làm nên;
10. cho nên, nầy, ta nghịch cùng ngươi và các sông ngươi, và sẽ khiến đất 
Ê-díp-tô thành ra đồng vắng hoang vu, từ tháp Sy-e-nê cho đến bờ cơi Ê-thi-ô-bi.
11. Chẳng có bàn chơn người sẽ đi qua đó, cũng chẳng có bàn chơn thú vật đi qua 
nó, cũng chẳng có dân cư ở đó nữa trong bốn mươi năm.
12. Ta sẽ khiến Ê-díp-tô làm một đất hoang vu ở giữa các nước nào hoang vu, và 
các thành nó ở giữa các thành tàn phá sẽ hoang vu trong bốn mươi năm. Ta sẽ làm 
tan tác dân Ê-díp-tô trong các dân, và rải chúng nó ra trong các nước.
13. V́ Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Măn bốn mươi năm, ta sẽ nhóm dân Ê-díp-tô 
lại từ giữa các dân mà trong đó chúng nó đă bị tan tác.
14. Ta sẽ làm cho những phu tù Ê-díp-tô trở về, và đem chúng nó về trong đất 
Pha-trốt, là đất quê quán của chúng nó, nhưng chúng nó chỉ lập nên một nước yếu 
hèn.
15. Nước Ê-díp-tô sẽ là một nước yếu hèn hơn hết các nước, và sẽ không dấy lên 
trên các nước nữa; ta sẽ khiến chúng nó kém đi, hầu cho chúng nó không cai trị 
các nước nữa.
16. Nước ấy sẽ không c̣n làm sự nhờ cậy cho nhà Y-sơ-ra-ên; khi nhà Y-sơ-ra-ên 
trông xem chúng nó th́ sẽ nhắc lại sự gian ác; và chúng nó sẽ biết rằng ta là 
Chúa Giê-hô-va.
17. Năm thứ hai mươi bảy, ngày mồng một tháng giêng, có lời Đức Giê-hô-va phán 
cùng ta rằng:
18. Hỡi con người, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đă gán cho đạo binh minh 
những việc rất nặng nhọc nghịch cùng Ty-rơ; mọi đầu đầu đă trở nên trọc, mọi vai 
đều đă bị ṃn; mà vua ấy chưa được tiền công nào của thành Ty-rơ, hăy cho ḿnh, 
hoặc cho đạo binh ḿnh, để bù lại công khó ḿnh đă đánh thành ấy.
19. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó đất Ê-díp-tô cho 
Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn; người sẽ bắt lấy dân chúng, cất lấy của cướp và 
mồi nó; đó sẽ là tiền công của đạo binh người.
20. Ta đă phó đất Ê-díp-tô cho người để thưởng sự khó nhọc người đă chịu, v́ 
chúng nó đă làm việc cho ta. Chúa Giê-hô-va phán vậy.
21. Trong ngày đó, ta sẽ khiến nhà Y-sơ-ra-ên nứt ra một cái sừng, và ta sẽ cho 
ngươi mở miệng giữa chúng nó; và chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 30   
 chọn đoạn khác
1. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy nói tiên tri và rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy 
khóc than! Ngày khốn nạn dường nào!
3. Thật vậy, ngày ấy gần rồi, phán, là ngày của Đức Giê-hô-va; ngày có mây, kỳ 
của các dân tộc.
4. Gươm sẽ đánh trên Ê-díp-tô; sự buồn rầu ở trong Ê-thi-ô-bi, khi những kẻ bị 
giết sẽ ngă xuống trong Ê-díp-tô; chúng nó sẽ cất lấy đoàn dân nó, và những nền 
nó bị đổ.
5. Ê-thi-ô-bi, Phút, Lút, mọi người lộn giống, Cúp, và con cái của đất đồng 
minh, sẽ cùng chúng nó ngă xuống bởi gươm.
6. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Những cái nâng đỡ Ê-díp-tô sẽ ngă; sức mạnh kiêu 
ngạo của nó sẽ hạ xuống. Chúng nó sẽ ngă trong nó bởi gươm, từ tháp Sy-e-nê, 
Chúa Giê-hô-va phán vậy.
7. Chúng nó sẽ hoang vu ở giữa các nước hoang vu, và các thành của nó sẽ ở giữa 
các thành tàn phá.
8. Thật, chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đă đặt lửa trong Ê-díp-tô, 
và khi mọi kẻ giúp nó bị tan nát.
9. Trong ngày đó, sẽ có sứ giả từ trước mặt ta đi trong tàu đặng làm cho người 
Ê-thi-ô-bi đương ở yên phải sợ hăi. Dân sự nó sẽ buồn rầu như trong ngày của 
Ê-díp-tô; v́, nầy nó đến gần rồi!
10. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ cậy tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, 
để diệt đoàn dân của Ê-díp-tô.
11. Vua ấy cùng dân ḿnh, là dân đáng sợ trong các dân, sẽ được đem đến đặng phá 
hại đất. Chúng nó sẽ rút gươm nghịch cùng Ê-díp-tô, và làm cho đất đầy những 
thây bị giết.
12. Ta sẽ làm cho các sông khô đi, và bán đất ấy trong tay những kẻ dữ. Ta sẽ 
cậy tay dân ngoại làm hoang vu đất ấy với mọi sự trong nó. Ta là Đức Giê-hô-va 
phán như vậy.
13. Chúa Giê-hô-va lại phán rằng: Ta sẽ hủy diệt các thần tượng và dứt các h́nh 
tượng khỏi thành Nốp. Trong đất Ê-díp-tô sẽ không có vua nữa, và ta sẽ rải sự 
kinh khiếp trong đất Ê-díp-tô.
14. Ta sẽ làm cho Pha-trốt nên hoang vu; đặt lửa tại Xô-an, và làm ra sẽ đoán 
phạt trên Nô.
15. Ta sẽ đổ cơn giận ta trên Sin, là thành vững bền của Ê-díp-tô, và sẽ diệt 
dân chúng của Nô.
16. Ta sẽ đặt lửa tại Ê-díp-tô, Sin sẽ bị đau đớn cả thể; Nô sẽ bị phá tan, và 
đương giữa ban ngày Nốp sẽ bị giặc hại.
17. Những người trai trẻ của A-ven và Phi-Bê-sốt sẽ ngă bởi gươm, và dân các 
thành ấy sẽ đi làm phu tù.
18. Tại Tác-pha-nết, ban ngày sẽ tối tăm, khi ta sẽ găy các ách của Ê-díp-tô ở 
đó, và sức mạnh kiêu ngạo của nó sẽ hết. Về nó, sẽ có đám mây che lấp đất ấy, 
những con gái nó sẽ đi làm phu tù.
19. Ta sẽ làm sự đoán phạt ta trên Ê-díp-tô, và chúng nó sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va.
20. Năm thứ mười một, ngày mồng bảy tháng giêng, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng 
ta rằng:
21. Hỡi con người, ta đă bẻ cách tay của Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô. Nầy, không ai 
rịt thuốc để chữa lành; không ai quấn chỗ thương để hàn miệng và để lấy sức lại, 
hầu cho nó có thể cầm gươm.
22. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng Pha-ra-ôn, vua 
Ê-díp-tô, và sẽ bẻ hai cánh tay nó, cánh đương mạnh luôn với cánh đă găy, và làm 
cho gươm rốt xuống khỏi tay nó.
23. Ta sẽ làm cho tan tác dân Ê-díp-tô trong các dân, và rải hết thảy chúng nó 
ra trong các nước.
24. Ta sẽ làm cho cánh tay vua Ba-by-lôn thêm mạnh, để gươm ta trong tay người; 
nhưng ta sẽ bẻ găy cánh tay của Pha-ra-ôn, vua nầy rên la trước mặt vua kia, như 
một người bị thương hầu chết rên la vậy.
25. Ta sẽ nâng đỡ hai cánh tay của vua Ba-by-lôn, và hai cánh tay của Pha-ra-ôn 
sẽ sa xuống. Chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta sẽ trao gươm ta trong 
tay vua Ba-by-lôn, và người sẽ giơ gươm ấy ra nghịch cùng đất Ê-díp-tô.
26. Ta sẽ làm tan tác dân Ê-díp-tô trong các dân, rải chúng nó ra trong các 
nước; và chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 31   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười một, ngày mồng một tháng ba, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta 
như vầy:
2. Hỡi con người, hăy nói cùng Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, và cùng cả đoàn dân 
người rằng: Sự tôn đại của ngươi so sánh cùng ai?
3. Hăy xem A-si-ri: ngày trước nó giống như cây hương bách của Li-ban, nhánh đẹp 
đẽ, bóng diềm dà, cây cao, và ngọn nó lên đến mây.
4. Các ḍng nước nuôi nó, có vực sâu chảy nước chung quanh chỗ nó trồng mà làm 
cho nó lớn lên, và tưới các suối ḿnh cho mọi cây cối ở trong đồng.
5. Vậy nên cây hương bách ấy cao hơn hết thảy các cây trong đồng; nhánh nó lớn 
lên, và tược nó nứt thêm ra, là nhờ có nhiều nước làm cho nó nay nở.
6. Mọi giống chim trời làm ở trong những nhánh nó; mọi giống thú đồng đẻ con 
dưới những tược nó, và hết thảy các dân tộc lớn đều ở dưới bóng nó.
7. Nó là xinh tốt bởi thân nó cao, bởi tược nó dài; v́ rễ nó đâm trong chỗ nhiều 
nước.
8. Chẳng có cây hương bách nào trong vườn Đức Chúa Trời che khuất nó được; cây 
tùng không bằng cái nhánh nó, cây bàng không bằng cái tược nó. Chẳng có cây nào 
của vườn Đức Chúa Trời xinh tốt bằng nó cả.
9. Ta đă làm cho nó xinh tốt bởi muôn vàn nhánh nó, và hết thảy những cây của 
Ê-đen, là những cây trong vườn Đức Chúa Trời đều ganh gỗ nó.
10. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ ngươi cao lớn, và nó đă vượt ngọn 
nó đến tận mây, và ḷng nó đă kiêu ngạo v́ ḿnh cao lớn;
11. nên ta sẽ phó nó trong tay một đấng mạnh của các nước, người chắc sẽ xử với 
nó; ta đă đuổi nó ra v́ những tội ác nó.
12. Một dân hung bạo trong hết thảy các dân ngoại đă chặt nó và bỏ lại. Những 
nhánh nó rốt xuống trên các núi và trong mọi nơi trũng; những tược nó bị găy nơi 
bờ khe, và mọi dân trên đất tránh xa bóng nó và ĺa bỏ nó.
13. Mọi loài chim trời sẽ đậu trên sự đổ nát của nó, và mọi loài thú đồng sẽ đến 
nghỉ trên những tược nó,
14. hầu cho chẳng có cây nào trồng gần nước dám kiêu ngạo về sự cao ḿnh, hay là 
vượt ngọn lên đến tận mây, và cho không có những cây nào được các ḍng nước tưới 
rộng cho mà khoe ḿnh cao lớn; v́ chúng nó hết thảy bị phó cho sự chết, cho vực 
sâu của đất, ở giữa con cái loài người, với những kẻ xuống trong hầm hố!
15. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mà nó xuống nơi âm phủ, ta đă khiến kẻ 
thương khóc v́ cớ nó, ta lấp vực sâu; ngăn cấm các sông chảy mạnh, và những ḍng 
nước lớn bị tắt lại. Ta khiến Li-ban buồn rầu v́ cớ nó, và mọi cây ngoài đồng v́ 
nó bị suy tàn.
16. Ta làm cho các dân tộc nghe tiếng nó đổ xuống mà rúng động, khi ta quăng nó 
xuống đến âm phủ, với hết thảy những kẻ xuống trong hầm hố! Bấy giờ mọi cây của 
Ê-đen, những cây rất xinh, những cây rất tốt của Li-ban, hết thảy những cây ngày 
trước được nhiều nước tưới, đều được yên ủi trong nơi vực sâu của đất.
17. Chúng nó cũng đă xuống với nó trong nơi âm phủ, kề những kẻ đă bị gươm giết, 
những kẻ ngày trước vốn là cánh tay của nó và ở dưới bóng nó giữa các dân.
18. Trong những cây của vườn Ê-đen, th́ ngươi là giống ai về sự vinh hiển tôn 
trọng? Ngươi cũng sẽ bị xô xuống cùng với các cây của Ê-đen trong nơi vực sâu 
của đất; ngươi sẽ nằm chính giữa những kẻ không chịu cắt b́, với những kẻ đă bị 
gươm giết. Pha-ra-ôn và hết thảy dân chúng người sẽ như vầy, Chúa Giê-hô-va 
phán.
Ê-xê-chi-ên 32   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ mười hai, ngày mồng một tháng chạp, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta 
như vầy:
2. Hỡi con người, hăy làm một bài ca thương về Pha-ra-ôn, vua Ê-díp-tô, và nói 
rằng: Ngươi giống như một con sư tử giữa các dân tộc; khác nào một vật quái dưới 
biển, mà đă trướng lên các sông. Ngươi lấy chơn vậy đục các ḍng nước, và làm 
cho các sông đầy những bùn.
3. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ giăng lưới ta trên ngươi, có một đoàn dân 
đông vô số giùm giúp, chúng nó sẽ kéo ngươi lên trong lưới ta.
4. Ta sẽ bỏ ngươi lại trên đất, và quăng ngươi trên mặt đồng ruộng. Ta sẽ khiến 
mọi loài chim trời đậu trên ngươi, và các loài thú khắp đất ăn ngươi mà no.
5. Ta sẽ đặt thịt ngươi trên các núi, và lấy tiền tệ ngươi lấp đầy các nơi 
trũng.
6. Ta sẽ lấy huyết ngươi tưới nơi đất ngươi lội bơi, cho đến các núi; và các khe 
nước sẽ đầy ngươi.
7. Khi ta giập tắt ngươi, th́ ta sẽ che các từng trời và làm tối các ngôi sao; 
dùng mây bao bọc mặt trời, và mặt trăng sẽ không chiếu sáng nữa.
8. Ta sẽ làm cho tối tăm trên ngươi mọi sự sáng láng trên trời, và ta sẽ bủa sự 
mờ mịt ra trên đất ngươi, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
9. Ta sẽ làm bối rối ḷng nhiều dân khi ta sẽ sao sự hủy diệt của ngươi ra trong 
các dân tộc, trong các nước mà ngươi chưa biết đến.
10. Ta sẽ làm cho nhiều dân kinh sợ về ngươi, và các vua chúng nó sẽ v́ cớ ngươi 
sợ hết hồn, khi ta huơ gươm trên mặt họ. Nơi ngày ngươi bị ngă xuống, chúng nó 
mỗi người đều v́ sự sống ḿnh mà run rẩy luôn luôn.
11. Thật vậy, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Gươm của vua Ba-by-lôn sẽ xông vào 
trên ngươi.
12. Ta sẽ khiến cả thảy dân ngươi ngă xuống dưới gươm của những người mạnh bạo, 
thảy đều là kẻ đáng sợ trong các dân. Chúng nó sẽ hạ sự kiêu ngạo của Ê-díp-tô 
xuống, và cả đoàn dân nó đều sẽ bị tiêu diệt.
13. Ta cũng sẽ làm cho cả súc vật nó chết hết nơi bờ sông lớn, nước sẽ không bị 
vậy đục nước bởi chơn của người ta hoặc bởi vó của thú vật.
14. Bấy giờ ta lại làm cho các ḍng nước của chúng nó được trong sạch, và làm 
cho các sông chúng nó chảy như dầu, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
15. Khi ta sẽ khiến đất Ê-díp-tô thành ra nơi hoang vu hủy phá, và đất ấy vị vét 
sạch cả của ḿnh trước đă đầy dẫy, khi ta sẽ đất hết thảy dân sự nó, th́ chúng 
nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
16. Ḱa là bài ca thương mà chúng nó sẽ than văn. Những con gái các nước sẽ than 
văn bằng một giọng thảm thương. Chúng nó sẽ than văn bài ấy để khóc Ê-díp-tô 
cùng cả thày dân nó, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
17. Năm thứ mười hai, ngày rằm, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
18. Hỡi con người, hăy than văn về đoàn dân Ê-díp-tô. Hăy xô dân ấy cùng với 
những con gái của các nước có danh tiếng xuống nơi vực sâu của đất, làm một với 
những kẻ xuống trong hầm hố!
19. Ngươi há đẹp hơn ai sao? Vậy hăy xuống và nằm chung với những kẻ không chịu 
cắt b́.
20. Phải, ḱa những kẻ ấy sẽ ngă xuống chính giữa những người đă bị gươm giết. 
Nó bị phó cho gươm; hăy kéo nó ra với cả các đoàn dân nó!
21. Từ giữa âm phủ, những lính chiến rất mạnh bạo, cùng những kẻ giúp đỡ nó, sẽ 
nói cùng nó mà rằng: Chúng nó đă xuống đó, chúng nó đă nằm yên, là kẻ chưa chịu 
cắt b́ mà đă bị gươm giết!
22. Tại đó có A-si-ri với cả đoàn dân nó; chung quanh nó đều là mồ mả. Hết thảy 
chúng nó đă bị giết, và đă ngă xuống bởi gươm.
23. Mồ mả nó ở trong những nơi sâu thẳm của hầm hố, và dân nó sắp hàng chung 
quanh mồ mả nó. Hết thảy đều đă bị giết; chúng nó vốn là những kẻ rải sự khiếp 
sợ ra trên đất người sống, mà nay đă ngă xuống bởi gươm.
24. Tại đó có Ê-lam với cả dân sự nó ở chung quanh mồ mả nó. Hết thảy đều đă bị 
giết, và đă ngă xuống bởi gươm. Những kẻ chưa chịu cắt b́ ấy đă xuống trong vực 
sâu của đất, tức là những kẻ từng rải sự khiếp sợ ra trên đất người sống; chúng 
nó chịu nhơ nhuốc trong ṿng những kẻ xuống nơi hầm hố.
25. Giường của nó và dân sự đă đặt ở giữa những kẻ bị giết, trong những mồ mả ở 
chung quanh nó. Hết thảy những kẻ chưa chịu cắt b́ ấy đă chết bởi gươm, v́ chúng 
nó từng rải sự khiếp sợ ra trên đất người sống. Chúng nó chịu nhơ nhuốc trong 
ṿng những kẻ xuống nơi hầm hố, và người ta đă sắp hàng nó ở giữa mọi kẻ bị 
giết.
26. Tại đó có Mê-siếc và Tu-banh, và cả dân chúng nó; mạnh mẽ chúng nó ở chung 
quanh chúng nó; hết thảy đều là những kẻ chưa chịu cắt b́ bị giết bởi gươm; v́ 
chúng nó từng rải sự khiếp sợ trên đất người sống.
27. Chúng nó không nằm chung với những lính chiến mạnh bạo đă ngă xuống trong 
ṿng những kẻ chưa chịu cắt b́, những lính chiến ấy đă xuống nơi âm phủ với khí 
giới đánh giặc của ḿnh, và người ta đă đặt gươm dưới đầu chúng nó. Song những 
kẻ kia, tội ác đă như giắt vào hài cốt ḿnh; v́ chúng nó rải sự sợ hăi cho những 
lính chiến mạnh bạo trên đất người sống.
28. Nhưng ngươi sẽ bị găy ở giữa những kẻ chưa chịu cắt b́, và sẽ nằm chung với 
những kẻ bị giết bởi gươm.
29. Tại đó có Ê-đôm, với các vua và cả các quan trưởng nó, những người nầy mạnh 
bạo mặc dầu, đă bị sắp hàng với những kẻ bị giết bởi gươm, và nằm chung với 
những kẻ chưa chịu cắt b́, và với những kẻ xuống trong hầm hố.
30. Tại đó cũng có hết thảy quan trưởng ở phương bắc và hết thảy dân Si-đôn đều 
xuống với những kẻ bị giết, dầu sự mạnh bạo của chúng nó đă làm cho khiếp sợ mặt 
ḷng. Chúng nó mang xấu hổ; chúng nó, là những kẻ chưa chịu cắt b́ ấy, đă nằm 
sóng sượt với những kẻ chịu nhơ nhuốc trong ṿng những kẻ đă xuống nơi hầm hố.
31. Pha-ra-ôn sẽ thấy vậy, th́ được yên ủi về cả đoàn dân ḿnh, tức là Pha-ra-ôn 
và cả đạo binh ḿnh bị giết bởi gươm, Chúa Giê-hô-va phán vậy;
32. v́ ta rải sự khiếp sợ người ra trên đất người sống. Thật, Pha-ra-ôn và cả 
dân người sẽ nằm giữa những kẻ chưa chịu cắt b́, với những kẻ đă bị giết bởi 
gươm, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 33   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy nói cùng con cái dân ngươi mà rằng: Khi ta sai gươm đến 
trên một đất nào, và dân đất ấy chọn một người trong chúng nó để đặt làm kẻ canh 
giữ,
3. nếu người nầy thấy gươm đến trong đất, th́ thổi kèn để răn bảo dân sự.
4. Bấy giờ, hễ ai nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo, và nếu gươm đến bắt lấy 
nó, th́ máu của người ấy sẽ đổ lại trên nó;
5. v́ nó có nghe tiếng kèn mà không chịu răn bảo, vậy máu nó đổ lại trên nó; 
nhưng nếu nó chịu răn bảo th́ cứu được mạng sống ḿnh.
6. Nhưng nếu kẻ canh giữ thấy gươm đến mà không thổi kèn, đến nỗi dân sự chẳng 
được răn bảo, và gươm đến mà cất sự sống của người nầy hoặc người kia đi, th́ 
người đó sẽ chết trong sự gian ác ḿnh; song ta sẽ đ̣i lại máu nó nơi người canh 
giữ.
7. Nầy, hỡi con người, ta đă lập ngươi được làm kẻ canh giữ cho nhà Y-sơ-ra-ên; 
nên hăy nghe lời từ miệng ta, và thay ta răn bảo trước cho chúng nó.
8. Khi ta phán cùng kẻ dữ rằng: Hỡi kẻ dữ, mầy chắc chết! nếu ngươi không răn 
bảo để cho kẻ dữ xây bỏ đường lối xấu của nó, th́ kẻ dự ấy sẽ chết trong sự gian 
ác ḿnh; nhưng ta sẽ đ̣i máu nó nơi tay ngươi.
9. Nếu, trái lại, ngươi đă răn bảo kẻ dữ đặng xây bỏ đường lối xấu của nó mà nó 
không xây bỏ, th́ nó sẽ chết trong sự gian ác nó, c̣n ngươi đă giải cứu mạng 
sống ḿnh.
10. Hỡi con người, hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Các ngươi nói như vầy mà 
rằng: V́ gian ác và tội lỗi chúng tôi chất nặng trên chúng tôi, và chúng tôi hao 
ṃn v́ cớ nó, th́ thế nào chúng tôi c̣n sống được?
11. Hăy nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta 
chẳng lấy sự kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui về nó xây bỏ đường lối ḿnh và được 
sống. Các ngươi khá xây bỏ, xây bỏ đường lối xấu của ḿnh. Sao các ngươi muốn 
chết, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên?
12. Hỡi con người, khá nói cùng con cái của dân ngươi rằng: Sự công b́nh của 
người công b́nh sẽ không cứu được nó trong ngày nó phạm tội, và sự dữ của kẻ dữ 
sẽ không làm cho nó sa ngă nơi ngày nó đă xây bỏ sự dữ ấy, cũng như người công 
b́nh sẽ không nhờ sự công b́nh đă qua rồi mà sống được nơi ngày ḿnh phạm tội.
13. Dầu mà ta có nói với người công b́nh rằng nó chắc sẽ sống, nếu nó cậy sự 
công b́nh ḿnh mà phạm tội, th́ sẽ không nhớ đến một việc công b́nh nào của nó 
nữa; nhưng nó sẽ chết trong sự gian ác ḿnh đă phạm.
14. Khi ta nói cùng kẻ dữ rằng: Mầy chắc chết! nếu kẻ dữ ấy xây bỏ tội lỗi ḿnh, 
theo luật pháp và hiệp với lẽ thật;
15. nếu nó trả lại của cầm, đền bồi vật nó đă cướp lấy, bước theo lệ luật của sự 
sống, và không phạm sự gian ác nữa, th́ chắc nó sẽ sống và không chết đâu.
16. Chẳng có một tội nào nó đă phạm sẽ được nhớ lại nghịch cùng nó; nó đă làm 
theo luật pháp và hiệp với lẽ thật, chắc nó sẽ sống.
17. Nhưng con cái của dân ngươi nói rằng: Đường của Chúa không bằng phẳng. Ấy là 
được của chúng nó bằng phẳng cho chúng nó!
18. Nếu người công b́nh xây bỏ sự công b́nh của ḿnh mà phạm sự gian ác, th́ nó 
sẽ chết trong đó.
19. Nếu kẻ dữ xây bỏ sự dữ của ḿnh mà làm theo luật pháp và hiệp với lẽ thật, 
ấy là bởi cớ đó mà nó sẽ sống.
20. Nhưng các ngươi nói rằng: Đường của Chúa không bằng phẳng! Hỡi nhà 
Y-sơ-ra-ên, ta sẽ xét đoán các ngươi, mỗi người theo việc làm của nó.
21. Năm thứ mười hai sau khi chúng ta bị bắt làm phu tù, ngày mồng năm tháng 
mười, một người đă trốn khỏi Giê-ru-sa-lem đến nói cùng ta rằng: Thành hăm rồi!
22. Vả! buổi chiều trước khi người đi trốn ấy chưa đến, th́ tay Đức Giê-hô-va ở 
trên ta; và Ngài đă mở miệng ta cho đến khi sớm mai người ấy đến cùng ta; th́ 
miệng ta đă được mở, ta không câm nữa.
23. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
24. Hỡi con người, những kẻ ở trong nơi đổ nát chất đống trên đất Y-sơ-ra-ên nói 
rằng: Áp-ra-ham chỉ có một ḿnh mà đă hưởng được đất nầy; chúng ta đông người, 
th́ đất nầy sẽ được ban cho chúng ta làm cơ nghiệp.
25. Vậy nên, khá bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi ăn 
huyết của thú vật, nhướng mắt hướng về thần tượng ḿnh, và làm cho đổ máu; các 
ngươi há sẽ được đất nầy sao?
26. Các ngươi cậy gươm ḿnh, phạm những điều gớm ghiếc, mỗi người trong các 
ngươi làm nhục vợ của kẻ lân cận ḿnh; các ngươi há sẽ được đất nầy sao?
27. Vậy ngươi khá nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Thật như 
ta hằng sống, những người ở nơi đổ nát chắc sẽ ngă bởi gươm, và ta sẽ phó những 
kẻ ở ngoài đồng cho thú vật cắn nuốt; c̣n những kẻ ở trong các đồn lũy hang hố 
th́ sẽ chết dịch.
28. Ta sẽ làm đất nầy ra hoang vu và gở lạ; quyền thế nó cậy mà kiêu ngạo sẽ dứt 
đi; các núi của Y-sơ-ra-ên sẽ hoang vu đến nỗi chẳng có ai qua lại nữa.
29. Bấy giờ chúng nó sẽ biết ta la Đức Giê-hô-va, khi ta đă làm cho đất nầy ra 
hoang vu và gở lạ, v́ cớ mọi sự gớm ghiếc mà chúng nó đă phạm.
30. Hỡi con người, những con cái của dân ngươi ở dọc tường thành và cửa các nhà 
mà nói chuyện về ngươi; chúng nó nói với nhau, mỗi người cùng anh em ḿnh rằng: 
Xin hăy đến nghe lời ra từ Đức Giê-hô-va là thể nào!
31. Đoạn chúng nó kéo cả đoàn cả lũ mà đến cùng ngươi; dân ta ngồi trước mặt 
ngươi, và nghe lời ngươi; nhưng chúng nó không làm theo. Miệng chúng nó tỏ ra 
nhiều sự yêu mến, mà ḷng chúng nó chỉ t́m lợi.
32. Nầy, chúng nó coi ngươi như là kẻ hát hay có tiếng vui và kẻ đờn giỏi; chúng 
nó nghe lời ngươi, nhưng không làm theo.
33. V́ vậy, khi tai nạn nầy sẽ đến, và ḱa, nó đến, chúng nó sẽ biết đă có một 
tiên tri ở giữa ḿnh.
Ê-xê-chi-ên 34   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy nói tiên tri nghịch cùng những kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên; hăy 
nói tiên tri, và bảo những kẻ chăn ấy rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khốn 
nạn cho kẻ chăn của Y-sơ-ra-ên, là kẻ chỉ nuôi ḿnh! Há chẳng phải những kẻ chăn 
nên cho bầy chiên ăn sao?
3. Các ngươi ăn mỡ, mặc lông chiên, giết những con chiên mập, mà các ngươi không 
cho bầy chiên ăn!
4. Các ngươi chẳng làm cho những con chiên mắc bịnh nên mạnh, chẳng chữa lành 
những con đau, chẳng rịt thuốc những con bị thương; chẳng đem những con bị đuổi 
về, chẳng t́m những con bị lạc mất; song các ngươi lại lấy sự độc dữ gay gắt mà 
cai trị chúng nó.
5. V́ không có kẻ chăn th́ chúng nó tan lạc; đă tan lạc th́ chúng nó trở nên mồi 
cho hết thảy loài thú ngoài đồng.
6. Những chiên ta đi lạc trên mọi núi và mọi đồi cao; những chiên ta tan tác 
trên cả mặt đất, chẳng có ai kiếm, chẳng có ai t́m.
7. Vậy nên, hỡi kẻ chăn, hăy nghe lời Đức Giê-hô-va:
8. Chúa Giê-hô-va phán rằng: Thật như ta hằng sống, v́ tại không có kẻ chăn, nên 
những chiên ta đă làm mồi, và đă trở nên đồ ăn của mọi loài thú ngoài đồng, 
những kẻ chăn của ta cũng không t́m kiếm chiên ta, nhưng chúng nó chỉ nuôi ḿnh 
mà không chăn nuôi chiên ta,
9. v́ cớ đó, hỡi kẻ chăn, hăy nghe lời Đức Giê-hô-va:
10. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng những kẻ chăn đó; ta sẽ đ̣i 
lại chiên của ta nơi tay chúng nó; ta không để cho chúng nó chăn chiên của ta 
nữa, và chúng nó cũng không thể tự chăn nuôi lấy ḿnh nữa; nhưng ta sẽ móc chiên 
ta ra khỏi miệng chúng nó, hầu cho chiên không làm đồ ăn cho chúng nó.
11. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, chính ta, tức là ta, sẽ kiếm chiên ta, ta 
sẽ t́m nó ra.
12. Ví như kẻ chăn t́m bầy ḿnh ra, trong ngày mà nó ở giữa những chiên ḿnh bị 
tan lạc, th́ ta cũng sẽ t́m chiên ta ra như vậy: ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi 
nơi mà chúng nó đă bị tan lạc trong ngày mây mù tăm tối.
13. Ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm chúng nó lại từ các 
nước, và đem chúng nó về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ chăn chúng nó trên các 
núi của Y-sơ-ra-ên, kề khe nước, và trong mọi nơi có dân cư trong nước.
14. Ta sẽ chăn chúng nó trong những đồng cỏ tốt, và chuồng chúng nó sẽ ở trên 
các núi nơi đất cao của Y-sơ-ra-ên; ở đó chúng nó sẽ nghỉ trong chuồng tử tế, và 
ăn cỏ trong đồng cỏ màu mỡ, tức là trên các núi của Y-sơ-ra-ên.
15. Ấy chính ta sẽ chăn chiên ta và cho chúng nó nằm nghỉ, Chúa Giê-hô-va phán 
vậy.
16. Ta sẽ t́m con nào đă mất, dắt về con nào bị đuổi, rịt thuốc cho con nào bị 
găy, và làm cho con nào đau được mạnh. Nhưng ta sẽ hủy diệt những con mập và 
mạnh. Ta sẽ dùng sự công b́nh mà chăn chúng nó.
17. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: C̣n như bay, hỡi bầy chiên ta, nầy, ta xét đoán 
giữa chiên và chiên, giữa chiên đực và dê đực.
18. Bay ăn trong vườn cỏ xinh tốt, mà lại lấy chơn giày đạp những cỏ c̣n lại; đă 
uống những nước trong, lại lấy chơn vậy đục nước c̣n thừa; bay há chẳng coi sự 
đó là việc nhỏ mọn sao?
19. C̣n những chiên ta th́ phải ăn cỏ chơn bay đă giày đạp, và uống nước chơn 
bay đă vấy đục!
20. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta, chính ta, sẽ xét đoán giữa 
những chiên mập và chiên gầy.
21. V́ bay lấy hông lấy vai mà xốc, lấy sừng mà vích mọi chiên con có bịnh, cho 
đến chừng bay đă làm tan lạc chúng nó ra ngoài,
22. nên ta sẽ đến cứu bầy chiên ta, chúng nó sẽ không làm mồi nữa, và ta sẽ xét 
đoán giữa chiên và chiên.
23. Ta sẽ lập trên chúng nó chỉ một kẻ chăn, người sẽ chăn chúng nó, tức là 
Đa-vít, tôi tớ ta. Ấy là người sẽ chăn chúng nó, người sẽ làm kẻ chăn chúng nó.
24. Ta, Đức Giê-hô-va, sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, c̣n Đa-vít, tôi tớ ta, sẽ 
làm vua giữa chúng nó. Ta, Đức Giê-hô-va, đă phán vậy.
25. Bấy giờ ta sẽ kết với chiên ta một giao ước ḥa b́nh. Ta sẽ làm cho những 
thú dữ trong đất dứt đi, đặng dân ta có thể ở yên ổn trong đồng vắng và ngủ 
trong rừng.
26. Ta sẽ làm cho chúng nó với các miền chung quanh đồi ta nên nguồn phước. Ta 
sẽ khiến mưa sa nơi mùa thuận tiện, ấy sẽ là cơn mưa của phước lành.
27. Cây ngoài đồng sẽ ra trái, và đất sẽ sanh hoa lợi. Chúng nó sẽ ở yên trong 
đất ḿnh, và sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đă bẻ găy những đ̣n của ách 
chúng nó, và đă giải cứu chúng nó ra khỏi tay những kẻ bắt chúng nó phục dịch.
28. Chúng nó sẽ chẳng làm mồi của các dân ngoại nữa; những loài thú của đất sẽ 
chẳng nuốt chúng nó nữa; chúng nó sẽ ở yên ổn, chẳng ai làm cho sợ hăi.
29. Ta sẽ sắm vườn có danh tiếng cho chúng nó, chúng nó sẽ không chết đói trong 
đất ḿnh nữa, và cũng không c̣n chịu sự hổ nhuốc của các nước nữa.
30. Chúng nó sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng nó, ở cùng chúng 
nó, và biết nhà Y-sơ-ra-ên chúng nó là dân ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
31. Bay là chiên của ta, là chiên của đồng cỏ ta; bay là loài người, và ta là 
Đức Chúa Trời bay, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 35   
 chọn đoạn khác
1. Lời của Đức Giê-hô-va được phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy xây mặt hướng về núi Sê-i-rơ, và nói tiên tri nghịch cùng 
nó.
3. Hăy nói cùng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi núi Sê-i-rơ, nầy, ta 
nghịch cùng mầy! Ta sẽ giá tay nghịch cùng mầy, làm cho mầy ra hoang vu và gở 
lạ.
4. Ta sẽ làm cho các thành của mầy ra đồng vắng, c̣n mầy sẽ trở nên hoang vu. 
Bấy giờ mầy sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
5. V́ mầy cưu sự ghen ghét vô cùng, và đă phó con cái Y-sơ-ra-ên cho quyền gươm 
dao nơi ngày tai vạ chúng nó, trong kỳ gian ác về cuối cùng,
6. v́ cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta sẽ sắm sẵn mầy cho 
phải huyết, và huyết sẽ đuổi theo mầy. V́ mầy đă chẳng ghét huyết, nên huyết sẽ 
đuổi theo mầy!
7. Vậy ta sẽ làm cho núi Sê-i-rơ gở lạ hoang vu, và hủy diệt cả người đi qua và 
người trở về.
8. Ta sẽ làm cho các núi nó đầy những kẻ bị giết của nó; những người bị gươm 
giết sẽ ngă xuống trên các đồi mầy, trong các trũng và giữa ḍng mọi sông suối 
mầy.
9. Ta sẽ làm cho mầy ra hoang vu đời đời; các thành mầy sẽ không có dân ở nữa, 
và bay sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
10. V́ mầy có nói rằng: Hai dân tộc ấy và hai nước ấy sẽ thuộc về ta, và chúng 
ta sẽ được nó làm kỷ vật, dầu Đức Giê-hô-va dương ở đó;
11. nên Chúa Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta sẽ đăi mầy bằng cơn giận 
và sự ghét mà mầy đă bởi ḷng ghen tương tỏ ra nghịch cùng chúng nó, và khi ta 
xét đoán mầy, ta sẽ tỏ ḿnh ra giữa chúng nó.
12. Mầy sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va, đă nghe những lời sỉ nhục mầy đă nói ra 
nghịch cùng các núi Y-sơ-ra-ên, mà rằng: Các núi ấy đă bị làm nên hoang vu; đă 
phó cho ta để nuốt.
13. Bay đă lấy miệng khoe ḿnh nghịch cùng ta, và đă thêm những lời ḿnh nghịch 
cùng ta. Thật, ta đă nghe điều đó!
14. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi cả đất vui mừng, ta sẽ làm cho mầy nên 
hoang vu.
15. V́ mầy đă lấy làm vui về sản nghiệp nhà Y-sơ-ra-ên bị hoang vu, nên ta đăi 
mầy cũng vậy. Hỡi núi Sê-i-rơ, mầy với cả Ê-đôm, tức cả xứ ấy, sẽ bị hoang vu, 
và chúng nó sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 36   
 chọn đoạn khác
1. Hỡi con người, hăy nói tiên tri về các núi của Y-sơ-ra-ên, và rằng: Hỡi các 
núi của Y-sơ-ra-ên, hăy nghe lời Đức Giê-hô-va!
2. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ quân thù nghịch có nói về bay rằng: Ê! Những 
g̣ cao đời xưa thuộc về chúng ta làm sản nghiệp!
3. V́ cớ đó, hăy nói tiên tri, và rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Thật, v́ 
chúng nó đă làm cho bay nên hoang vu, và nuốt bay tư bề, đặng bay trở nên sản 
nghiệp của những kẻ sót lại của các nước, và bay bị miệng kẻ hay nói bàn luận, 
và bị dân sự chê bai,
4. v́ cớ đó, hỡi các núi của Y-sơ-ra-ên, hăy nghe lời của Chúa Giê-hô-va: Chúa 
Giê-hô-va phán như vầy cho các núi và các g̣, cho khe suối và đồng trũng, cho 
nơi đổ nát hoang vu và các thành bị bỏ, đă phó cho những kẻ sót lại của các nước 
chung quanh bay cướp bóc và nhạo báng,
5. v́ cớ đó, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Thật, trong cơn ghen tương nóng nảy, 
ta rao lời án nghịch cùng kẻ sót lại của các nước ấy và cả Ê-đôm, là những kẻ 
đầy ḷng vui mừng và ư khinh dể, định đất của ta cho ḿnh làm kỷ vật, đặng phó 
nó cho sự cướp bóc.
6. Vậy nên, hăy nói tiên tri về đất của Y-sơ-ra-ên; hăy nói với các núi và các 
g̣, khe suối và đồng trũng rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Thật ta phán trong 
cơn ghen và cơn giận của ta, v́ bay đă chịu sự hổ nhuốc của các nước.
7. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta đă thề rằng: Các nước chung quanh 
bay chắc sẽ chịu hổ nhuốc!
8. Nhưng nay, các núi Y-sơ-ra-ên, sẽ sanh những nhánh và ra trái cho dân 
Y-sơ-ra-ên ta; v́ chúng nó sắp trở về.
9. Nầy, ta hướng về bay, xây lại cùng bay, và bay sẽ bị cày cấy gieo văi.
10. Trên đất bay ta sẽ thêm số dân cư và số con cái cả nhà Y-sơ-ra-ên. Các thành 
sẽ có người ở, các nơi đổ nát sẽ được dựng lại.
11. Ta sẽ thêm loài người và loài vật trên đất bay, chúng nó sẽ thêm nhiều và 
nẩy nở; ta sẽ làm cho bay đông dân như lúc trước, và ban ơn cho bay hơn thuở ban 
đầu. Bấy giờ bay sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
12. Ta sẽ làm cho những dân cư bước đi trên đất ngươi, tức là dân Y-sơ-ra-ên ta. 
Thật, chúng nó sẽ được mầy làm kỷ vật; mầy sẽ làm sản nghiệp chúng nó, và không 
làm mất con cái chúng nó nữa.
13. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: V́ người ta nói cùng bay rằng: Hỡi đất, mầy 
nuốt người ta, và làm mất con cái của dân mầy đi,
14. cũng v́ cớ đó, mầy chẳng nuốt người ta nữa, và không làm mất con cái của dân 
mầy đi nữa, Đức Giê-hô-va phán vậy.
15. Ta không để cho mầy nghe những lời nhiếc móc của các nước nữa; mầy sẽ không 
c̣n chịu sự nhuốc nha của các dân nữa, và mầy không khiến dân ḿnh vấp phạm nữa, 
Chúa Giê-hô-va phán vậy.
16. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
17. Hỡi con người, khi nhà Y-sơ-ra-ên ở trong đất ḿnh, đă làm ô uế đất ấy bởi 
đường lối và việc làm của ḿnh: đường lối chúng nó ở trước mặt ta như là sự ô uế 
của một người đờn bà chẳng sạch.
18. Ta đă rải cơn thạnh nộ của ta trên chúng nó, v́ cớ huyết mà chúng nó đă làm 
đổ ra trên đất, và v́ chúng nó đă làm ô uế đất ấy bởi thần tượng ḿnh.
19. Ta đă làm tan tác chúng nó trong các dân, và chúng nó đă bị rải ra trong 
nhiều nước; ta đă xét đoán chúng nó theo đường lối và việc làm.
20. Khi chúng nó đă tới trong các nước mà chúng nó đă đi đến, th́ chúng nó đă 
phạm danh thánh ta, đến nỗi người ta nói về chúng nó rằng: Ấy là dân của Đức 
Giê-hô-va; chúng nó đă ra đi từ đất Ngài!
21. Nhưng ta tiếc danh thánh của ta mà nhà Y-sơ-ra-ên đă phạm trong các dân tộc, 
là nơi nhà ấy đă đi đến.
22. Vậy nên hăy nói cùng nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi 
nhà Y-sơ-ra-ên, ấy chẳng phải v́ cớ các ngươi mà ta làm cách ấy, nhưng v́ cớ 
danh thánh ta mà các ngươi đă phạm trong các dân, là nơi các ngươi đă đi đến.
23. Ta sẽ làm nên thánh danh lớn của ta, là danh đă bị phạm trong các dân, giữa 
các dân đó các ngươi đă phạm danh ấy. Chúa Giê-hô-va phán: Như vậy các dân tộc 
sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi trước mắt chúng nó ta sẽ được tỏ ra thánh bởi 
các ngươi.
24. Ta sẽ thâu lấy các ngươi khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm các ngươi lại từ mọi 
nước, và đem về trong đất riêng của các ngươi.
25. Ta sẽ rưới nước trong trên các ngươi, và các ngươi sẽ trở nên sạch; ta sẽ 
làm sạch hết mọi sự ô uế và mọi thần tượng của các ngươi.
26. Ta sẽ ban ḷng mới cho các ngươi, và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ cất 
ḷng bằng đá khỏi thịt các ngươi, và ban cho các ngươi ḷng bằng thịt.
27. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và khiến các ngươi noi theo luật lệ ta, 
th́ các ngươi sẽ giữ mạng lịnh ta và làm theo.
28. Các ngươi sẽ ở trong đất mà ta đă ban cho tổ phụ các ngươi; các ngươi sẽ làm 
dân ta, ta sẽ làm Đức Chúa Trời các ngươi.
29. Ta sẽ giải cứu các ngươi khỏi mọi sự ô uế; ta sẽ gọi lúa ḿ tốt lên, khiến 
cho nẩy nở thêm nhiều, và không giáng cho các ngươi sự đói kém.
30. Ta sẽ thêm nhiều trái cây và hoa lợi của đồng ruộng, hầu cho các ngươi không 
v́ đói kém chịu sự xấu hổ ở giữa các nước.
31. Bấy giờ các ngươi sẽ nhớ lại đường lối xấu xa của ḿnh, và việc làm của ḿnh 
là không tốt. Chính các ngươi sẽ tự gớm ghét ḿnh, v́ cớ tội lỗi và những sự gớm 
ghiếc của các ngươi.
32. Chúa Giê-hô-va phán: Chẳng phải v́ cớ các ngươi mà ta làm như vậy, các ngươi 
khá biết rơ. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, khá biết hổ và mắc cỡ về đường lối ḿnh.
33. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mà ta sẽ làm sạch mọi tội lỗi các ngươi, 
ta sẽ lại làm cho thành các ngươi có dân ở, và những chỗ đổ nát sẽ dựng lại.
34. Đất hoang vu sẽ cầy cấy, dầu mà trước đă hoang vu trước mắt mọi kẻ đi qua.
35. Chúng nó sẽ nói rằng: Đất hoang vu nầy đă trở nên như vườn Ê-đen; những 
thành đổ nát, hoang vu, tàn phá kia, ḱa đă có tường vách và dân ở!
36. Bấy giờ các dân tộc c̣n sót lại xung quanh các ngươi sẽ biết rằng ta, Đức 
Giê-hô-va, đă cất lại nơi bị phá, trồng lại nơi bị hủy. Ta, Đức Giê-hô-va, đă 
phán lời đó, và sẽ làm thành.
37. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ta c̣n muốn nhà Y-sơ-ra-ên cầu hỏi ta để ta làm 
sự nầy cho: Ta sẽ thêm nhiều người nam nó như một bầy chiên.
38. Các thành đổ nát sẽ đầy những bầy người, như bầy chiên để làm của lễ, như 
bầy của Giê-ru-sa-lem trong ngày lễ trọng thể. Và chúng nó sẽ biết ta là Đức 
Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 37   
 chọn đoạn khác
1. Tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta; Ngài dắt ta ra trong Thần Đức Giê-hô-va, 
và đặt ta giữa trũng; nó đầy những hài cốt.
2. Đoạn Ngài khiến ta đi ṿng quanh những hài cốt ấy; nầy, có nhiều lắm trên 
đồng trũng đó, và đều là khô lắm.
3. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng? 
Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!
4. Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hăy nói tiên tri về hài cốt ấy, và bảo chúng nó 
rằng: Hỡi hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giê-hô-va.
5. Chúa Giê-hô-va phán cùng những hài cốt ấy rằng: Nầy, ta sẽ phú hơi thở vào 
trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống.
6. Ta sẽ đặt gân vào trong các ngươi, sẽ khiến thịt mọc lên trên các ngươi, và 
che các ngươi bằng da. Ta sẽ phú hơi thở trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống; 
rồi các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va.
7. Vậy ta nói tiên tri như Ngài đă phán dặn ta; ta đương nói tiên tri, th́ có 
tiếng, và nầy, có động đất: những xương nhóm lại hiệp với nhau.
8. Ta nh́n xem, thấy những gân và thịt sanh ra trên những xương ấy; có da bọc 
lấy, nhưng không có hơi thở ở trong.
9. Bấy giờ Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hăy nói tiên tri cùng gió; hăy 
nói tiên tri và bảo gió rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi hơi thở, khá đến 
từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, hầu cho chúng nó sống.
10. Vậy ta nói tiên tri như Ngài đă phán dặn ta, và hơi thở vào trong chúng nó; 
chúng nó sống, và đứng dậy trên chơn ḿnh, hiệp lại thành một đội quân rất lớn.
11. Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, những hài cốt nầy, ấy là cả nhà 
Y-sơ-ra-ên. Nầy, chúng nó nói rằng: Xương chúng ta đă khô, ḷng trông cậy chúng 
ta đă mất, chúng ta đă tuyệt diệt cả!
12. Vậy, hăy nói tiên tri, và bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: 
Hỡi dân ta, nầy, ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả, 
và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên.
13. Hỡi dân ta, các ngươi sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đă mở mồ mả các 
ngươi, và làm cho chúng nó lại lên khỏi mồ mả.
14. Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ lập các ngươi 
trong đất riêng của các ngươi; rồi các ngươi sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, sau 
khi hứa lời ấy th́ đă làm thành, Đức Giê-hô-va phán vậy.
15. Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
16. Hỡi con người, hăy lấy một cây gậy và viết ở trên rằng: Cho Giu-đa, và cho 
con cái Y-sơ-ra-ên là bạn người. Hăy lấy một cây gậy khác và viết ở trên rằng: 
Cho Giô-sép, ấy là cây gậy của Ép-ra-im, và của cả nhà Y-sơ-ra-ên là bạn người.
17. Hăy để gậy nầy với gậy kia hiệp làm một, đặng làm thành một cây trong tay 
ngươi.
18. Khi các con cái dân ngươi sẽ hỏi ngươi mà rằng: Vậy xin cắt nghĩa cho chúng 
tôi điều đó là ǵ:
19. th́ ngươi khá trả lời rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ lấy gậy 
của Giô-sép và của các chi phái Y-sơ-ra-ên là bạn người, là gậy ở trong tay 
Ép-ra-im. Ta sẽ hiệp lại với gậy của Giu-đa đặng làm nên chỉ một gậy mà thôi, và 
hai cái sẽ cùng hiệp làm một trong tay ta.
20. Ngươi khá cầm những gậy mà ngươi đă viết chữ ở trên, hiệp lại trong tay 
ngươi cho chúng nó thấy,
21. và nói cùng chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ kéo con 
cái Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa các nước mà trong các nước ấy chúng nó đă đi. Ta sẽ 
nhóm chúng nó lại từ bốn phương, và đem chúng nó về trong đất riêng của chúng 
nó.
22. Ta sẽ hiệp chúng nó lại làm chỉ một dân tộc trong đất ấy, ở trên núi của 
Y-sơ-ra-ên. Chỉ một vua sẽ cai trị chúng nó hết thảy. Chúng nó sẽ không thành ra 
hai dân tộc, và không chia ra hai nước nữa.
23. Chúng nó sẽ không tự làm ô uế nữa bởi thần tượng chúng nó, hoặc bởi những 
vật đáng ghét, hoặc bởi mọi sự phạm tội của ḿnh. Ta sẽ giải cứu chúng nó khỏi 
mọi nơi ở mà chúng nó đă phạm tội. Ta sẽ làm sạch chúng nó, vậy th́ chúng nó sẽ 
làm dân ta, ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó.
24. Tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua trên chúng nó. Hết thảy chúng nó sẽ có chỉ 
một kẻ chăn; chúng nó sẽ bước theo các mạng lịnh của ta; chúng nó sẽ ǵn giữ các 
luật lệ của ta và làm theo.
25. Chúng nó sẽ ở đất mà ta đă ban cho tôi tớ ta là Gia-cốp, và là đất tổ phụ 
con người đă ở. Chúng nó, con cái chúng nó, và con cái của con cái chúng nó sẽ ở 
đó cho đến đời đời; tôi tớ ta là Đa-vít sẽ làm vua chúng nó măi măi.
26. Vả, ta sẽ lập với chúng nó một giao ước ḥa b́nh; ấy sẽ là một giao ước đời 
đời giữa chúng nó với ta. Ta sẽ lập chúng nó và làm cho đông đúc. Ta sẽ đặt nơi 
thánh ta giữa chúng nó đời đời.
27. Đền tạm ta sẽ ở giữa chúng nó; ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nó sẽ 
làm dân ta.
28. Bấy giờ các nước sẽ biết ta, là Đức Giê-hô-va, biệt Y-sơ-ra-ên ra thánh, v́ 
nơi thánh ta sẽ ở giữa chúng nó đời đời.
Ê-xê-chi-ên 38   
 chọn đoạn khác
1. Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:
2. Hỡi con người, hăy xây mặt lại cùng Gót ở đất Ma-gốc là vua của Rô-sơ, 
Mê-siếc, và Tu-banh, mà nói tiên tri nghịch cùng người.
3. Ngươi khá nói rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Gót, vua của Rô-sơ, 
Mê-siếc, và Tu-banh, nầy, ta nghịch cùng ngươi.
4. Ta sẽ quay ngươi lại, đặt những móc trong hàm ngươi, khiến ngươi ra khỏi bờ 
cơi ḿnh, ngươi và cả đạo binh ngươi, ngựa cùng người cỡi ngựa, hết thảy đều mặc 
áo chiến, hiệp làm cơ binh đông lắm, mang những thuẫn lớn thuẫn nhỏ, và hết thảy 
đều cầm gươm.
5. Những lính chiến của Phe-rơ-sơ, Cút, và Phút sẽ ở cùng chúng nó, hết thảy đều 
mang thuẫn và đội măo trụ.
6. Gô-me và hết thảy quân đội nó, nhà Tô-ga-ma ở phía cực bắc với hết thảy bè 
đảng nó, tức là nhiều dân sẽ phụ về ngươi.
7. Ngươi khá sẵn sàng; ngươi cùng hết thảy dân chúng nhóm lại xung quanh ngươi 
khá sửa soạn trước. Ngươi hăy làm tướng chúng nó.
8. Sau nhiều ngày, ngươi sẽ lănh mạng ra đi; trong những năm sau rốt ngươi sẽ 
đến trong một đất là đất đă được giải cứu khỏi gươm và nhóm lại từ giữa nhiều 
dân tộc; ngươi sẽ đến trên núi Y-sơ-ra-ên, là nơi đổ nát đă lâu, nhưng nó đă 
được đem về từ giữa các đến, và chúng nó hết thảy sẽ ở yên.
9. Ngươi sẽ sấn tới, sẽ đến như gió băo, như một đám mây trùng cả đất, ngươi, 
mọi đạo binh ngươi, và nhiều dân tộc với ngươi.
10. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Trong những ngày đó, có ư tưởng sẽ dấy lên 
trong trí ngươi, ngươi sẽ định mưu kế hung dữ.
11. Ngươi sẽ nói rằng: Ta sẽ đi đến đất có làng không có thành quách, ta sẽ đến 
cùng những dân yên lặng, an ổn, hết thảy ở trong những nơi không có tường, không 
then và không cửa.
12. Ta sẽ ra trận đặng cướp và lấy của, đặng giang tay trên những nơi đổ nát đó 
mà nay đă có dân cư, và trên một dân đă được đem về từ giữa các nước, có những 
súc vật và của cải, ăn ở giữa thế gian.
13. Sê-ba và Đê-đan, những con buôn của Ta-rê-si và hết thảy những sư tử tơ của 
nó, sẽ nói cùng ngươi rằng: Có phải ngươi đến đặng bóc lột, ngươi nhóm quân đội 
ḿnh lại đặng cướp của, đặng đem bạc và vàng đi, đặng lấy những súc vật và của 
cải, đặng làm một sự cướp giựt lớn sao?
14. Vậy nên, hỡi con người, hăy nói tiên tri và bảo Gót rằng: Chúa Giê-hô-va 
phán như vầy: Trong ngày đó, khi dân Y-sơ-ra-ên của ta ở yên ổn, ngươi há chẳng 
phải sẽ biết sao?
15. Bấy giờ ngươi sẽ đến từ nơi ngươi, từ phương cực bắc, ngươi và nhiều dân ở 
với ngươi, hết thảy đều cỡi ngựa, người đông nhiều hiệp nên một đạo binh mạnh.
16. Hỡi Gót! Ngươi sẽ đến đánh dân Y-sơ-ra-ên ta, như một đám mây che phủ đất. 
Thật vậy, trong những ngày sau rốt, ta sẽ khiến ngươi đi đánh đất ta, hầu cho 
các dân tộc học mà nh́n biết ta, khi ta sẽ được tỏ ra thánh bởi ngươi trước mắt 
chúng nó.
17. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Xưa kia ta đă cậy tôi tớ ta, là các tiên tri 
của Y-sơ-ra-ên, trong những thời đó, trải nhiều năm, họ đă nói tiên tri rằng ta 
sẽ khiến ngươi đến nghịch cùng dân ta, ấy há chẳng phải là ta đă phán về ngươi 
sao?
18. Chúa Giê-hô-va phán: Sẽ xảy đến trong ngày đó, là ngày Gót sẽ đi đánh đất 
Y-sơ-ra-ên, th́ cơn giận của ta sẽ nổi trên lỗ mũi ta.
19. Ta đương ghen tương, đương giận phừng phừng mà nói rằng: Thật, trong ngày đó 
sẽ có sự rúng động lớn phát ra trong đất Y-sơ-ra-ên.
20. Trước mặt ta, những cá biển, những chim trời, những loài thú đồng, hết thảy 
những côn trùng ḅ trên đất, hết thảy những người ở trên mặt đất, sẽ đều run 
rẩy. Những núi đều bị quăng xuống, những vách đá đều đổ xuống, hết thảy những 
tường đều bị sụp xuống đất.
21. Chúa Giê-hô-va phán: Ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng nó ở trên mọi núi của 
ta. Ai nấy sẽ xây gươm lại nghịch cùng anh em ḿnh.
22. Ta sẽ làm sự xét đoán nghịch cùng nó bởi dịch lệ và bởi máu. Ta sẽ khiến 
những trận mưa dầm, mưa đá, lửa và diêm sinh đổ xuống trên nó, trên đạo binh nó, 
và dân đông đi với nó.
23. Ấy vậy, ta sẽ làm sáng danh ta, sẽ tỏ ḿnh ra thánh, và sẽ được nhận biết 
trước mắt nhiều dân tộc. Chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
Ê-xê-chi-ên 39   
 chọn đoạn khác
1. Hỡi con người, hăy nói tiên tri nghịch cùng Gót và bảo nó rằng: Chúa 
Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Gót, vua của Rô-rơ, Mê-siếc, và Tu-banh, nầy, ta 
nghịch cùng ngươi.
2. Ta sẽ quay ngươi lại. Ta sẽ dẫn ngươi đi, và khiến ngươi đến từ phía cực bắc, 
và đem ngươi lên trên các núi của Y-sơ-ra-ên.
3. Ta sẽ đánh rơi cung của ngươi khỏi tay tả, và làm rớt những tên của ngươi 
khỏi tay hữu.
4. Ngươi sẽ ngă xuống trên các núi của Y-sơ-ra-ên, ngươi và mọi đạo binh ngươi, 
cả đến những dân theo ngươi nữa. Ta sẽ phó ngươi cho mọi loài chim ăn thịt, và 
cho loài thú đồng nuốt đi.
5. Ngươi sẽ ngă xuống trên đồng ruộng; v́ ta đă phán, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
6. Bấy giờ ta sẽ sai lửa xuống trên Ma-gốc, và trên những kẻ ở yên ổn nơi các cù 
lao; và chúng nó sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va.
7. Ta sẽ tỏ danh thánh ta ra giữa dân Y-sơ-ra-ên ta, và ta không để cho nói phạm 
đến danh thánh ta nữa. Các dân tộc sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng 
Thánh trong Y-sơ-ra-ên.
8. Nầy, sự ấy đến, và sẽ làm thành, Chúa Giê-hô-va phán vậy; ấy là ngày mà ta đă 
rao!
9. Bấy giờ những dân cư các thành của Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra, đặng đốt và phó cho 
lửa những khí giới, những thuẫn lớn và nhỏ, những cung và tên, những giáo và 
sào, chúng nó đem chụm lửa được bảy năm.
10. Chúng nó sẽ không t́m củi trong đồng, không đốn củi trong rừng, v́ lấy khí 
giới mà chụm lửa. Chúng nó sẽ bóc lột những kẻ đă bóc lột ḿnh, và cướp giựt 
những kẻ đă cướp giựt ḿnh, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
11. Sẽ xảy ra trong ngày đó, ta sẽ cho Gót một chỗ chôn tại Y-sơ-ra-ên, trong 
đồng trũng của những người qua lại, ở về phương đông biển; và chỗ chôn đó sẽ 
ngăn đường của khác bộ hành. Ấy tại đó người ta sẽ chôn Gót và cả đoàn dân nó; 
và người ta sẽ gọi đồng trũng ấy là đồng trũng của đảng Gót.
12. Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ phải mất bảy tháng để chôn chúng nó, hầu cho làm sạch 
trong đất.
13. Hết thảy dân cư trong đất sẽ chôn chúng nó, và ấy sẽ là một ngày danh tiếng 
cho dân, là ngày mà ta sẽ được vinh hiển, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
14. Chúng nó sẽ cắt những người hằng đi tuần trong đất, và với những người đó sẽ 
có người chôn những thây c̣n lại trên mặt đất để làm cho sạch; qua khỏi bảy 
tháng, họ sẽ đi t́m kiếm.
15. Vậy nếu nó đi tuần trong đất, thấy những xương người ta, th́ dựng tiêu chí 
một bên, cho đến chừng nào những kẻ chôn đă chôn những xương ấy trong đồng trũng 
của đảng Gót.
16. Cũng sẽ có một thành được gọi tên là Đảng. Ấy người ta sẽ làm sạch trong đất 
như vậy.
17. Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hăy nói cùng cả loài chim và hết 
thảy các loài thú đồng rằng: Hăy nhóm lại, hăy từ bốn phương đến v́ một của lễ 
mà ta dọn cho bay, tức là một của lễ lớn trên các núi Y-sơ-ra-ên, để bay được ăn 
thịt và uống huyết.
18. Bay sẽ ăn thịt của người mạnh bạo, uống huyết của các quan trưởng trong 
thiên hạ, những chiên đực, chiên con, dê đực, ḅ đực mập của Ba-san.
19. Bay sẽ ăn mỡ cho no, uống huyết cho say, trong hi sinh mà ta giết cho bay.
20. Nơi bàn ta, bay sẽ ăn no những ngựa và xe trân, những người mạnh bạo, và mọi 
lính chiến, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
21. Ta sẽ tỏ sự vinh hiển ta ra trong các nước; hết thảy các dân tộc sẽ thấy sẽ 
đoán xét ta làm ra, và tay ta đặt trên chúng nó.
22. Từ ngày đó về sau, nhà Y-sơ-ra-ên sẽ biết ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của 
ḿnh.
23. Bấy giờ các dân tộc sẽ biết rằng nhà Y-sơ-ra-ên đă bị đem đi làm phu tù v́ 
cớ tội lỗi nó, v́ cớ nó đă phạm tội nghịch cùng ta. Ấy v́ vậy mà ta giấu mặt ta 
khỏi chúng nó, mà ta đă phó chúng nó trong tay những kẻ nghịch thù, và chúng nó 
chết hết thảy bởi gươm.
24. Ta sẽ đăi chúng nó như vầy, v́ cớ sự ô uế và tội ác chúng nó, và ta đă che 
mặt khỏi chúng nó.
25. Vậy nên, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nay ta sẽ đem những kẻ phu tù của 
Gia-cốp trở về; ta sẽ thương xót cả nhà Y-sơ-ra-ên, và v́ danh thánh ta mà nổi 
ghen.
26. Chúng nó sẽ mang xấu hổ và mắc tội lỗi về mọi tội lỗi mà chúng nó đă phạm 
nghịch cùng ta, khi chúng nó sẽ ở yên trong đất ḿnh, không lo sợ ai hết.
27. Là khi ta sẽ đem chúng nó về từ giữa các dân và thâu lại khỏi các đất của kẻ 
thù chúng nó, th́ ta sẽ được tỏ ra thánh bởi chúng nó ở trước mắt nhiều nước.
28. Chúng nó sẽ biết rằng ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ḿnh, là khi ta đă 
đày chúng nó làm phu tù giữa các nước rồi, và đă thâu chúng nó lại đến đất của 
ḿnh, chẳng để sót một kẻ nào ở đó.
29. Ta sẽ không che mặt khỏi chúng nó nữa, v́ ta sẽ đổ Thần ta trên nhà 
Y-sơ-ra-ên, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 40   
 chọn đoạn khác
1. Năm thứ hai mươi lăm sau khi chúng ta bị làm phu tù, đầu năm, ngày mồng mười 
trong tháng, tức là mười bốn năm sau khi Giê-ru-sa-lem bị hăm, cũng trong ngày 
ấy, tay của Đức Giê-hô-va đặt trên ta; và Ngài đem ta vào trong thành ấy.
2. Trong các sự hiện thấy của Đức Chúa Trời, Ngài đem ta vào đất Y-sơ-ra-ên, và 
đặt ta trên một ḥn núi rất cao, trên núi đó, về phía nam, dường như có sự xây 
cất một thành.
3. Khi Ngài đă dắt ta vào đó, ta thấy một người h́nh dáng như người bằng đồng. 
Người ấy cầm trong tay một sợi dây gai và một cái cần để đo, đứng nơi hiên cửa.
4. Người bảo ta rằng: Hỡi con người, hăy lấy mắt xem, lấy tai nghe, và để ḷng 
vào những việc mà ta sẽ tỏ ra cho ngươi; v́ ấy là để cho ngươi thấy cả, mà đem 
ngươi đến đây. Vậy mọi đều ngươi sẽ thấy, khá thuật lại cho nhà Y-sơ-ra-ên biết.
5. Nầy, có một cái tường ngoài bao chung quanh nhà. Người ấy cầm trong tay một 
cái cần để đo, dài sáu cu-đê, mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường một gang tay. Người 
đo bề rộng của tường là một cần, và bề cao là một cần.
6. Kế đó, người đi đến nơi hiên cửa phía đông, bước lên những cấp, đặng đo ngạch 
hiên cửa, bề rộng một cần; ngạch khác cũng rộng một cần.
7. Mỗi pḥng dài một cần và rộng một cần. Giữa các pḥng, có một khoảng hở năm 
cu-đê; ngạch của hiên cửa trong, gần bên nhà ngoài hiên cửa ấy, rộng một cần.
8. Người đo nhà ngoài của hiên cửa, về phía trong, cũng một cần.
9. Người đo nhà ngoài của hiên cửa, có tám cu-đê, và những cột nó hai cu-đê; ấy 
là nhà ngoài của hiên cửa về phía trong.
10. Những pḥng của hiên cửa phía đông mỗi bên ba cái, cả ba lớn đồng nhau, và 
các cột mỗi bên đo bằng nhau.
11. Người đo bề rộng của lỗ hiên cửa, có mười cu-đê, và bề dài mười ba cu-đê.
12. Trước các pḥng mỗi bên có một cái câu lơn một cu-đê; và mỗi pḥng một bề có 
sáu cu-đê, bề kia cũng sáu cu-đê.
13. Người đo hiên cửa, từ mái của pḥng nầy đến mái của pḥng khác là hai mươi 
lăm cu-đê bề ngang, từ cửa nầy đến cửa kia.
14. Đoạn, người tính các cột là sáu mươi cu-đê, gần các cột ấy có hàng lang bao 
lấy hiên cửa.
15. Khoảng hở giữa cửa vào và nhà ngoài của cửa trong là năm mươi cu-đê
16. Nơi các pḥng và những cột nó, nơi phía trong hiên cửa, cả đến các nhà 
ngoài, thảy đều có những cửa sổ chấn song. Nơi phía trong, cả chung quanh có 
những cửa sổ, và trên các cột có những h́nh cây kè.
17. Rồi đó, người dẫn ta vào nơi hành lang ngoài; nầy, tại đó có những pḥng, và 
có nền lót đá chung quanh hành lang; trên nền lót đá ấy có ba mươi cái pḥng.
18. Nền lót đá ở bốn phía hiên cửa, và bề dài bằng hiên cửa ấy là nền lót đá 
dưới.
19. Người đo bề ngang từ phía trước hiên cửa dưới cho đến mép hành lang trong, 
là một trăm cu-đê, phía đông và phía bắc cũng vậy.
20. Người lại đo bề dài và bề ngang của hiên cửa phía bắc thuộc về hành lang 
ngoài.
21. Những pḥng của nó mỗi bên ba cái, các cột và nhà ngoài cũng đồng cỡ với của 
hiên cửa thứ nhứt: năm mươi cu-đê bề dài và hai mươi lăm cu-đê bề ngang.
22. Những cửa sổ, nhà ngoài và h́nh cây kè của nó cũng đồng cỡ với của hiên cửa 
phía đông; có bảy cấp bước lên, cái nhà ngoài ở ngay trước các cấp ấy.
23. Đối với hiên cửa phía bắc và hiên cửa phía đông th́ có hiên cửa hành lang 
trong. Từ hiên cửa nầy đến hiên cửa khác độ một trăm cu-đê.
24. Rồi đó, người dắt ta qua pḥng nam, nầy, tại đó có hiên cửa hướng nam; người 
đo các cột và các nhà ngoài, cũng đồng cỡ nhau.
25. Hiên cửa ấy có những cửa sổ giống như những cửa sổ trước bao bọc lấy, các 
nhà ngoài cũng vậy; bề dài của hiên cửa nầy là năm mươi cu-đê, và bề ngang hai 
mươi lăm cu-đê.
26. Có bảy cấp bước lên, ngay trước các cấp ấy có một cái nhà ngoài; mỗi phía có 
những h́nh cây kè trên các cột.
27. Hành lang trong có một cái hiên cửa hướng nam, người ấy đo từ hiên cửa nầy 
đến hiên cửa khác, về phía nam, một trăm cu-đê.
28. Đoạn người đem ta vào hành lang trong do hiên cửa phía nam; người đo hiên 
cửa phía nam, có đồng một cỡ.
29. Những pḥng, những cột, và những nhà ngoài của nó cũng đồng cỡ nhau. Hiên 
cửa nầy có những cửa sổ bao bọc lấy, các nhà ngoài nó cũng vậy; bề dài nó là năm 
mươi cu-đê, và bề ngang hai mươi lăm cu-đê.
30. Cả chung quanh có nhà ngoài, bề dài hai mươi lăm cu-đê, bề ngang năm cu-đê.
31. Các nhà ngoài của hiên cửa ở về phía hành lang ngoài; có những h́nh cây kè ở 
trên các cột nó, và có tám cấp bước lên.
32. Kế đó, người ấy dắt ta vào hành lang trong về phía đông; người đo hiên cửa 
đó cũng đồng một cỡ. Những pḥng, những cột, và nhà ngoài của nó cũng đồng một 
cỡ, và hiên cửa nầy có những cửa sổ bao bọc lấy, các nhà ngoài cũng vậy.
33. Hành lang dài năm mươi cu-đê, rộng hai mươi lăm cu-đê.
34. Các nhà ngoài của hiên cửa nầy ở về phía hành lang ngoài; mỗi phía có h́nh 
cây kè trên các cột, và có tám cấp bước lên.
35. Đoạn người ấy đem ta vào trong hiên cửa phía bắc; người đo hiên cửa, cũng 
đồng một cỡ,
36. những pḥng, những cột, và những nhà ngoài nó cũng vậy; lại có những cửa sổ 
khắp chung quanh. Hiên cửa nầy bề dài năm mươi cu-đê, rộng hai mươi lăm cu-đê.
37. Những nhà ngoài của nó ở về phía hành lang ngoài; mỗi phía có những h́nh cây 
kè trên các cột, và có tám cấp bước lên.
38. Có một cái pḥng mà cửa nó ở gần các cột của hiên cửa, ấy người ta rửa các 
của lễ thiêu ở đó.
39. Trong nhà ngoài của hiên cửa mỗi phía có hai cái bàn, trên đó người ta giết 
những con sinh về của lễ thiêu, về của lễ chuộc sự mắc lỗi, và về của lễ chuộc 
tội.
40. Về phía ngoài, tại chỗ cũng lên, hướng về hiên cửa phía bắc, có hai cái bàn; 
bên kia, về phía nhà ngoài của hiên cửa, cũng có hai cái bàn.
41. Như vậy, bốn cái bàn ở bên nầy hiên cửa, và bốn cái bàn ở bên kia, cọng là 
tám cái; trên các bàn đó người ta giết những con sinh.
42. Lại có bốn cái bàn bằng đá vuông để dùng về của lễ thiêu, dài một cu-đê 
rưỡi, rộng một cu-đê rưỡi, cao một cu-đê. Người ta để trên đó những khí cụ dùng 
mà giết con sinh về của lễ thiêu và các của lễ khác.
43. Có những móc rộng bằng ḷng bàn tay cắm cùng bốn phía tường; thịt tế phải để 
trên các bàn.
44. Phía ngoài hiên cửa trong, có những pḥng để cho kẻ hát nơi hành lang trong, 
kề hiên cửa phía bắc, ngó về phía nam. Lại một cái pḥng nữa ở về phía hiên cửa 
đông, ngó về phía bắc.
45. Người ấy bảo ta rằng: Cái pḥng ngó qua phía nam là để cho các thầy tế lễ 
giữ nhà;
46. cái pḥng ngó qua phía bắc để cho các thầy tế lễ giữ bàn thờ. Ấy là các con 
trai của Xa-đốc, tức là trong ṿng các con trai Lê-vi, đến gần Đức Giê-hô-va 
đặng hầu việc Ngài.
47. Đoạn người đo hành lang vuông, có một trăm cu-đê bề dài và một trăm cu-đê bề 
ngang. Bàn thờ th́ ở trước mặt nhà.
48. Kế đó người đem ta vào nhà ngoài của nhà, và người đo các cột ở đó, bên nầy 
năm cu-đê, bên kia năm cu-đê; bề ngang của hiên cửa bên nầy ba cu-đê, bên kia ba 
cu-đê.
49. Nhà ngoài có hai mươi cu-đê bề dài, và mười một cu-đê bề ngang; có những cấp 
bước lên, kề các cột lại có hai cây trụ, bê nầy một cây, bên kia một cây.
Ê-xê-chi-ên 41   
 chọn đoạn khác
1. Đoạn người đem ta vào trong đền thờ, và người đo các cột ở đó. Các cột có sáu 
cu-đê bề ngang về bên nầy, và sáu cu-đê về bên kia: cũng bằng bề ngang của đền 
tạm thuở xưa vậy.
2. Bề ngang của cửa vào là mười cu-đê: năm cu-đê bê nầy, năm cu-đê bên kia. 
Người đo bề dài: bốn mươi cu-đê; và bề ngang: hai mươi cu-đê.
3. Người vào bên trong, đo các cột chỗ cửa vào: hai cu-đê; bề cao của cửa: sáu 
cu-đê; bề ngang của cửa: bảy cu-đê.
4. Người đo phía trong cùng, bề dài hai mươi cu-đê, bề ngang hai mươi cu-đê, và 
bảo ta rằng: Chính là chỗ rất thành đây.
5. Rồi người đo tường nhà: sáu cu-đê; bề ngang của những pḥng bên hông khắp 
chung quanh nhà: bốn cu-đê.
6. Những pḥng bên hông có ba tầng, mỗi tầng ba mươi pḥng; những pḥng ấy giáp 
với một cái tường xây chung quanh nhà, khá dựa vào đó mà không gác lên trên 
tường nhà.
7. Nhà cầu càng cao càng rộng, v́ tường chung quanh nhà càng cao càng hẹp, cho 
nên nhà cũng càng cao càng rộng. Người ta đi lên từ tầng dưới đến tầng trên do 
tầng giữa.
8. Ta thấy cả cái nhà nằm trên một cái nầy cao trọn một cần, nghĩa là sáu cu-đê 
lớn, nền của các pḥng bên hông cũng vậy.
9. Bề dày của tường ngoài về các pḥng bên hông là năm cu-đê; cái tường ấy ḷ ra 
bởi nền của nhà bên hông nhà.
10. Khoảng trống ở giữa các pḥng bên hông nhà và các pḥng khác rộng là hai 
mươi cu-đê khắp chung quanh nhà.
11. Những cửa của các pḥng bên hông mở ra nơi đất không: một lối vào ở phía 
bắc, một lối phía nam; về bề ngang của chỗ đó đều là năm cu-đê.
12. Cái nhà ở về trước khoảng đất biệt riêng, hướng tây, rộng là bảy mươi cu-đê; 
tường bao quanh nhà ấy dày năm cu-đê, dài chín mươi cu-đê.
13. Đoạn, người đo nhà, dài một trăm cu-đê; khoảng đất biệt riêng, nhà, và các 
tường cũng dài một trăm cu-đê.
14. Bề ngang của mặt nhà, với khoảng đất biệt riêng về phía đông, là một trăm 
cu-đê.
15. Kế đó, người đo bề dài của các nhà ở trước mặt khoảng đất biệt riêng trên 
chỗ đằng sau, và các nhà cầu của mỗi bên: lại là một trăm cu-đê. Đền thờ, về 
phía trong, các nhà ngoài của hành lang,
16. các ngạch cửa, các cửa sổ chấn song, các nhà cầu chung quanh, cùng ba tần 
phía trước các ngạch cửa, thảy đều lợp lá mái bằng ván. Từ đất đến các cửa sổ 
đều đóng lại,
17. trên cửa, bên trong và bên ngoài đền thờ, khắp tường chung quanh, bề trong 
và bề ngoài đều có đo cả.
18. Người ta đă chạm những chê-ru-bin và những h́nh cây kè, một h́nh cây kè ở 
giữa hai chê-ru-bin; mỗi chê-ru-bin có hai mặt,
19. một mặt người ta xây bên nầy hướng về h́nh cây kè, một mặt sư tử tơ xây bên 
kia hướng về h́nh cây kè, khắp cả nhà đều chạm như vậy.
20. Từ đất đến trên cửa, có những chê-ru-bin và những cây kè chạm, trên tường 
đền thờ cũng vậy.
21. Khuôn cửa của đền thờ h́nh vuông, và mặt trước của nơi thánh cũng đồng một 
h́nh như h́nh trước cửa đền thờ.
22. Cái bàn thờ th́ bằng gỗ, cao ba cu-đê, dài hai cu-đê. Những góc, mặt, và 
những cạnh của bàn thờ đều bằng gỗ. Người ấy bảo ta rằng: Nầy là cái bàn ở trước 
mặt Đức Giê-hô-va.
23. Đền thờ và nơi thành có hai cửa;
24. mỗi cửa có hai cánh khép lại được, cửa nầy hai cánh, cửa kia hai cánh.
25. Có những chê-ru-bin và những cây kè chạm trên cửa đền thờ, cũng như trên 
tường. Trên phía trước cửa bằng gỗ.
26. Cũng có những cửa sổ chấn song, những h́nh cây kè ở bên nầy bên kia, nơi bốn 
phía ngoài, nơi các pḥng bên hông đền và nơi ngạch cửa.
Ê-xê-chi-ên 42   
 chọn đoạn khác
1. Đoạn người dắt ta vào hành lang ngoài, về phía bắc, và đem ta vào trong Cái 
pḥng ở trước mặt khoảng đất biệt riêng, đối với nhà hướng bắc.
2. Trên trước mặt là nơi có cửa vào bề phía bắc, những pḥng ấy choán bề dài một 
trăm cu-đê, bề ngang năm mươi cu-đê.
3. Các pḥng đối nhau, trên một bề dài hai mươi cu-đê, nơi hành lang trong, đối 
với nền lót đă của hành lang ngoài, tại đó có những nhà cầu ba tầng.
4. Phía trước các pḥng có đường đi rộng mười cu-đê, và phía trong có một con 
đường rộng một cu-đê; những cửa pḥng đều xây về phía bắc.
5. Những pḥng trên hẹp hơn những pḥng dưới và những pḥng giữa, v́ các nhà cầu 
choán chỗ của những pḥng trên.
6. có ba tầng, song không có cột như cột của hành lang; cho nên những pḥng trên 
và những pḥng giữa hẹp hơn những pḥng dưới.
7. Bức tường ngoài đi dọc theo các pḥng về hướng hành lang ngoài, trước mặt các 
pḥng, có năm mươi cu-đê bề dài;
8. v́ bề dài của các pḥng trong hành lang ngoài là năm mươi cu-đê, c̣n về trước 
mặt đền thờ th́ có một trăm cu-đê.
9. Dưới các pḥng ấy, về phía đông, có một cửa vào cho những người từ hành lang 
ngoài mà đến.
10. Cũng có những pḥng trên bề ngang tường hành lang, về phía đông, ngay trước 
mặt khoảng đất biệt riêng và nhà.
11. Có một con đường trước các pḥng ấy, cũng như trước các pḥng phía bắc; hết 
thảy các pḥng ấy bề dài bề ngang bằng nhau, đường ra lối vào và h́nh thế cũng 
giống nhau.
12. Các cửa pḥng phía nam cũng đồng như vậy. Nơi vào con đường, trước mặt tường 
phía đông đối ngay, có một cái cửa, người ta vào bởi đó.
13. Bấy giờ người bảo ta rằng: Các pḥng phía bắc và các pḥng phía nam, ngay 
trước khoảng đất biệt riêng, là những pḥng thánh, là nơi các thầy tế lễ gần Đức 
Giê-hô-va ăn những vật rất thánh. Các thầy ấy sẽ để đó những vật rất thánh, của 
lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và của lễ chuộc tội; v́ nơi đó là thánh.
14. Khi các thầy tế lễ đă vào đó rồi, không cởi tại đó những áo ḿnh mặc mà hầu 
việc, th́ không được từ nơi thánh ra đặng đi đến nơi hành lang ngoài nữa, v́ 
những áo ấy là thánh, các thầy ấy phải thay áo khác đặng đến gần nơi dân sự.
15. Sau khi đă đo phía trong nhà xong rồi, người đem ta ra bởi hiên cửa phía 
đông, rồi người đo quanh ṿng tṛn.
16. Người dùng cần đo phía đông, có năm trăm cần.
17. Người đo phía bắc bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần.
18. Người đo phía nam bằng cái cần dùng để đo, có năm trăm cần.
19. Người trở qua phía tây để đo, có năm trăm cần.
20. Người đo bốn phía tường bao chung quanh nhà, bề dài là năm trăm cần, bề rộng 
là năm trăm. Tường nầy dùng để phân biệt nơi thánh với nơi tục.
Ê-xê-chi-ên 43   
 chọn đoạn khác
1. Rồi người dắt ta vào hiên cửa, tức là hiên cửa phía đông.
2. Ta thấy vinh quang của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên từ phương đông mà đến. Tiếng 
Ngài giống như tiếng nước lớn, và đất sáng rực v́ vinh quang Ngài.
3. Sự hiện thấy mà ta thấy bấy giờ, giống như sự hiện thấy đă hiện ra cho ta khi 
ta đến đặng hủy diệt thành nầy. Ấy là những sự hiện thấy giống như sự hiện thấy 
mà ta đă thấy trên bờ sông Kê-ba, và ta sấp mặt xuống.
4. Vinh quang của Đức Giê-hô-va vào trong nhà do hiên cửa hướng đông.
5. Thần cất ta lên và đem ta vào nơi hành lang trong; và, nầy, vinh quang của 
Đức Giê-hô-va đầy nhà.
6. Ta nghe có ai nói với ta từ trong nhà; có một người đứng gần bên ta.
7. Người nói cùng ta rằng: Hăy con người, đây là nơi đặt ngai ta, là nơi để bàn 
chơn ta, tại đây ta sẽ ở đời đời giữa con cái Y-sơ-ra-ên. Từ nay về sau, không 
cứ là nhà Y-sơ-ra-ên, là các vua nó, cũng sẽ không phạm đến danh thánh ta nữa, 
bởi sự hành dâm chúng nó, và bởi những xác chết của các vua chúng nó trên các 
nơi cao;
8. v́ chúng nó đă đặt ngạch cửa của nơi thánh ḿnh gần ngạch cửa ta, đặt trụ cửa 
của ḿnh gần trụ cửa ta, cho đến nỗi giữa ta và chúng nó chỉ có cái tường mà 
thôi. Ấy vậy chúng nó đă làm ô uế danh thánh ta bởi những sự gớm ghiếc mà chúng 
nó đă phạm; nên ta giận mà tuyệt diệt chúng nó đi.
9. Bây giờ chúng nó khá bỏ sự hành dâm ḿnh và những xác chết của vua ḿnh cách 
xa ta, th́ ta sẽ ở giữa chúng nó đời đời.
10. Hỡi con người, khá cho nhà Y-sơ-ra-ên biết nhà nầy, hầu cho chúng nó xấu hổ 
về tội lỗi ḿnh. Chúng nó khá đo theo kiểu nó.
11. Khi chúng nó hổ thẹn về mọi điều ḿnh đă làm, ngươi khá giơ h́nh nhà nầy ra 
cho chúng nó, là những h́nh thế, đường ra, lối vào, hết thảy các h́nh trạng, hết 
thảy những mạng lịnh nó, h́nh nó, và hết thảy luật lệ nó. Hăy viết mà tả ra mọi 
điều đó trước mặt chúng nó, hầu cho chúng nó giữ lấy cả h́nh nó và cả lệ luật nó 
để làm theo.
12. Nầy là luật của nhà: Cả châu vi nó ở trên chót núi, là nơi rất thánh. Ấy là 
luật của nhà như vậy.
13. Nầy là mực thước của bàn thờ, bằng cu-đê mà mỗi cu-đê dài hơn cu-đê thường 
một gang tay. Cái nền cao một cu-đê, và rộng một cu-đê, cái lợi ṿng quanh theo 
nó cao một gang; đó là cái đế bàn thờ.
14. Từ cái nền ngang mặt đất cho đến cái khuôn dưới, có hai cu-đê, với cái lợi 
một cu-đê. Từ khuôn nhỏ cho đến khuôn lớn là bốn cu-đê, với cái lợi một cu-đê.
15. Mặt bàn thờ có bốn cu-đê, và từ mặt bàn thờ mọc lên bốn cái sừng.
16. Mặt bàn thờ có mười hai cu-đê bề dài và mười hai cu-đê bề ngang, sẽ là 
vuông.
17. Khuôn giữa, hoặc bề dài hoặc bề ngang, bốn phía mỗi phía đều có mười bốn 
cu-đê; có một cái lợi chung quanh nửa cu-đê; và một cái nền một cu-đê, những cấp 
của nó sẽ xây về phía đông.
18. Người nói cùng ta rằng: Hỡi con người, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy là 
các luật về bàn thờ, vừa ngày nó đă được xây xong đặng người ta có thể dâng của 
lễ thiêu và làm lễ rưới huyết trên đó.
19. Chúa Giê-hô-va phán: Các thần tế lễ họ Lê-vi về ḍng Xa-đốc, đến gần ta đặng 
hầu việc ta, ngươi khác cho họ một con ḅ đực tơ đặng họ làm lễ chuộc tội.
20. Ngươi khá lấy huyết nó bôi trên bốn sừng bàn thờ và bốn góc khuôn, và trên 
lợi ṿng theo, đặng làm sạch bàn thờ và làm lễ chuộc tội cho nó.
21. Ngươi khá đem con ḅ đực dâng làm lễ chuộc tội mà đốt đi trong nơi định sẵn 
của nhà, ở ngoài nơi thánh.
22. Ngày thứ hai, ngươi khá dâng một con dê đực không t́ vít v́ lễ chuộc tội, v́ 
sự làm sạch bàn thờ, như đă dùng ḅ đực mà làm sạch vậy.
23. Khi ngươi đă xong sự làm sạch, th́ khá dâng một con ḅ đực tơ không t́ vít, 
và một con chiên đực không t́ vít, bắt ra từ trong bầy.
24. Ngươi sẽ đem hai vật đó gần trước mặt Đức Giê-hô-va, các thầy tế lễ rưới 
muối lên, và dâng làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
25. Thẳng bảy ngày, mỗi ngày ngươi khá sắm một con dê đực, để làm lễ chuộc tội; 
và sắm một con ḅ đực tơ, một con chiên đực không t́ vít, bắt ra từ trong bầy.
26. Thẳng bảy ngày, phải làm lễ chuộc tội cho bàn thờ, phải làm sạch nó, biệt nó 
riêng ra thánh.
27. Sau những ngày ấy qua rồi, từ ngày thứ tám trở đi, khi các thầy tế lễ sẽ 
dâng của lễ thiêu và của lễ thù ân của các ngươi trên bàn thờ ấy, th́ ta sẽ nhậm 
cho, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 44   
 chọn đoạn khác
1. Đoạn người đem ta đến hiên cửa ngoài của nơi thánh, ngó về phía đông. Cửa ấy 
vẫn đóng.
2. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng ta rằng: Hiên cửa nầy sẽ đóng luôn không mở nữa. 
Chẳng ai được vào bởi hiên cửa nầy, v́ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đă 
vào bởi đó; vậy cửa ấy sẽ đóng lại.
3. Chỉ có vua, v́ người là vua, th́ có thể đến ngồi tại đó đặng ăn bánh trước 
mặt Đức Giê-hô-va. Vua sẽ vào bởi nhà ngoài của hiên cửa, và cũng ra bởi đường 
ấy.
4. Rồi người dắt ta bởi hiên cửa phía bắc đến trước nhà. Ta nh́n xem, và nầy, 
vinh quang của Đức Giê-hô-va đầy dẫy nhà Đức Giê-hô-va, th́ ta sấp mặt xuống.
5. Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hỡi con người, khá chú ư kĩ càng; 
lấy mắt ngó và lấy tai nghe mọi điều ta sẽ phán cùng ngươi, về mọi mạng lịnh mọi 
lệ luật của nhà Đức Giê-hô-va. Hăy cẩn thận coi sóc lối vào của nhà, và hết thảy 
các đường ra của nơi thánh.
6. Ngươi khá nói cùng kẻ bạn nghịch tức là nhà Y-sơ-ra-ên rằng: Chúa Giê-hô-va 
phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, mọi sự đáng gớm ghiếc của các ngươi đă đủ rồi.
7. Các ngươi đă dắt những con cái dân ngoại, là những kẻ không cắt b́ bề ḷng 
chúng nó cũng như về thịt chúng nó, vào trong nơi thánh ta đặng làm ô uế nhà ta, 
khi các ngươi dâng bánh, mỡ và huyết của ta; như vậy các ngươi đă phạm lời giao 
ước ta bởi mọi sự gớm ghiếc của các ngươi.
8. Chính các ngươi không giữ vật thánh ta; nhưng các ngươi đă lập người khác 
thay ḿnh mà giữ vật thánh ta trong nơi thánh ta.
9. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Chẳng có một người ngoại nào không cắt b́ về 
ḷng nó cũng như về thịt nó mà được vào trong nơi thánh ta; không, chẳng có một 
người ngoài nào ở giữa con cái Y-sơ-ra-ên được vào đó.
10. Vả lại, khi dân Y-sơ-ra-ên lầm lạc, th́ những người Lê-vi đă đi cách xa ta, 
bỏ ta đặng hầu việc thần tượng nó, sẽ mang tội lỗi ḿnh.
11. Dầu vậy, chúng nó sẽ hầu việc trong nơi thánh ta, làm kẻ giữ cửa nhà, sẽ hầu 
việc nơi nhà, sẽ v́ dân sự giết những con sinh định làm của lễ thiêu và các của 
lễ khác, sẽ đứng trước mặt dân sự đặng hầu việc nó.
12. V́ chúng nó đă hầu việc dân sự trước mặt những thần tượng của nó, và đă nên 
dịp tội cho nhà Y-sơ-ra-ên; v́ cớ đó, ta đă giơ tay lên nghịch cùng chúng nó, 
vậy chúng nó sẽ mang tội lỗi ḿnh, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
13. Chúng nó sẽ không đến gần ta đặng làm trọn các công việc thầy tế lễ trước 
mặt ta. Chúng nó sẽ không đến gần vật thánh nào của ta, hăy vật rất thánh; song 
sẽ mang sự nhuốc nha và những sự gớm ghiếc ḿnh đă phạm.
14. Nhưng mà ta sẽ lập chúng nó lên đặng coi giữ nhà, đặng làm trọn chức vụ và 
mọi công việc cần trong đó.
15. Đến như các thầy tế lễ họ Lê-vi, con cháu của Xa-đốc, c̣n coi giữ nơi thánh 
ta khi con cái Y-sơ-ra-ên lầm lạc cách xa ta, những kẻ đó sẽ gần ta đặng hầu 
việc, sẽ đứng trước mặt ta đặng dâng mỡ và huyết, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
16. Ấy là những kẻ sẽ vào nơi thánh ta, đến gần nơi bàn ta đặng hầu việc ta, và 
giữ vật ta.
17. Khi chúng nó vào bởi các cửa của hành lang trong, th́ sẽ mặt áo bằng gai; 
chúng nó sẽ không mặc đồ bằng lông chiên trong khi hầu việc nơi các hiên cửa của 
hành lang và nơi nhà.
18. Chúng nó sẽ đội khăn bằng gai trên đầu và mặc quần đùi bằng gai nơi lưng, 
thứ vải nào hay đổ mồ hôi th́ không mặc lấy.
19. Nhưng khi chúng nó đi qua nơi hành lang ngoài, là nơi dân sự đứng, th́ phải 
cởi áo xống hầu việc, để trong các pḥng thánh, và mặc áo khác, hầu cho không 
lấy áo ḿnh làm cho dân sự nên thánh.
20. Chúng nó sẽ không cạo đầu, và không để tóc dài, những sẽ cắt tóc.
21. Chẳng có thầy tế lễ nao được uống rượu khi vào nơi hành lang trong.
22. Chúng nó không được lấy đờn bà góa hoặc bị để mà làm vợ; nhưng phải lấy gái 
đồng trinh về ḍng nhà Y-sơ-ra-ên, hay là lấy vợ góa của một thầy tế lễ.
23. Chúng nó sẽ dạy dân ta phân biệt điều chi là thánh với điều chi là tục; làm 
cho dân ta biết điều ô uế và điều thánh sạch khác nhau là thể nào.
24. Khi có sự kiện xảy đến, chúng nó phải xử đoán, và phải xử đoán theo mạng 
lịnh ta; chúng nó sẽ vâng giữ các luật pháp ta và các lệ luật ta trong mọi kỳ lễ 
của ta, và làm cho các ngày sa-bát ta nên thánh.
25. Chẳng có một ai trong chúng nó được đến gần thây kẻ chết, e bị ô uế chăng; 
song le, thầy tế lễ có thể bị ô uế v́ cha ḿnh, v́ mẹ ḿnh, v́ một người anh em, 
hay là v́ một người chị em không chồng.
26. Sau sự được sạch, sẽ kể là bảy ngày.
27. Cái ngày mà thầy tế lễ ấy sẽ vào trong nơi thánh, trong hành lang trong, 
đặng hầu việc tại đó, th́ phải dâng của lễ chuộc tội ḿnh, Chúa Giê-hô-va phán 
vậy.
28. C̣n như gia tài để dành cho chúng nó, th́ chính ta là gia tài của chúng nó 
đây. Các ngươi chớ cho chúng nó sản nghiệp ǵ trong Y-sơ-ra-ên; chính ta là sản 
nghiệp chúng nó.
29. Chúng nó sẽ nuôi ḿnh bằng những của lễ chay, của lễ chuộc sự mắc lỗi, và 
của lễ chuộc tội; lại hễ vật chi khấn dâng bởi trong dân Y-sơ-ra-ên th́ sẽ thuộc 
về chúng nó.
30. Các hoa quả đầu mùa của mọi thứ sản vật, cùng hết thảy của lễ chay mà các 
ngươi dâng, đều sẽ thuộc về thầy tế lễ. Các ngươi cũng sẽ cho các thầy tế lễ bột 
nhồi đầu ḿnh của ḿnh, hầu làm cho sự chúc phước yên nghỉ nơi nhà các ngươi.
31. Các thầy tế lễ không nên ăn thịt của một con thú nào chết tự nhiên, hay là 
bị xé, hoặc thịt chim, hoặc thịt thú.
Ê-xê-chi-ên 45   
 chọn đoạn khác
1. Khi các ngươi bắt thăm mà chia xứ ra làm sản nghiệp, khá lấy trước một phần 
của đất mà dâng cho Đức Giê-hô-va, phần ấy sẽ là thánh. Bề dài nó sẽ là hai mươi 
lăm ngàn cần, và bề ngang người ngàn cần; giới hạn nó đến đâu đều là thánh cả.
2. Trên phần đất ấy, các ngươi khá lấy một miếng vuông bề dài năm trăm, bề ngang 
năm trăm, để làm nơi thánh; chung quanh miếng đất đó sẽ có một khoảng đất trống 
là năm mươi cu-đê.
3. Xứ đă đo một lần, vậy các ngươi khá để riêng ra một khoảng dài hai mươi lăm 
ngàn và rộng mười ngàn, để đặt nơi thánh, là nơi rất thánh tại đó.
4. Ấy sẽ là phần thánh của miếng đất ấy; nó sẽ thuộc về các thầy tế lễ, là kẻ 
hầu việc nơi thánh, đến gần Đức Giê-hô-va đặng làm chức vụ ḿnh. Đó sẽ là chỗ để 
xây nhà cho họ, và một chỗ thánh cho nơi thánh.
5. Một phần khác bề dài hai mươi lăm ngàn, bề ngang mười ngàn, sẽ thuộc về các 
người Lê-vi. Các người nầy làm chức vụ trong nhà, sẽ có được hai mươi cái pḥng.
6. Về phần đất thành phố, các ngươi khá lấy năm ngàn bề ngang, và hai mươi lăm 
ngàn bề dài; chạy rọc theo phần đất thánh đă lấy trước; ấy sẽ về phần cả nhà 
Y-sơ-ra-ên.
7. Ở nơi đất thánh đă dâng cùng đất dựng thành phố, chỗ bên tả bên hữu đối nhau, 
sẽ thuộc về phần vua; phía tây đến giới hạn phía tây của nước, phía đông đến 
giới hạn phía đông của nước, bề dài cùng giới hạn đông tây của đất thánh đồng 
nhau.
8. Ấy sẽ là phần đất của vua, sản nghiệp của người trong Y-sơ-ra-ên; và các vua 
ta sẽ không ḥa hiệp dân ta nữa, nhưng các vua sẽ chia phần c̣n lại của miếng 
đất cho trong các chi phái nhà Y-sơ-ra-ên.
9. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi các vua Y-sơ-ra-ên, thế đă đủ cho các ngươi 
rồi! Khá bỏ sự bạo ngược và hà hiếp; làm sự đoán xét và công b́nh; hăy giải cứu 
dân ta khỏi những sự hà lạm của ngươi, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
10. Hăy có những cái cần công b́nh, cái ê-pha công b́nh, cái bát công b́nh.
11. Cái ê-pha và cái bát phải có sức chứa bằng nhau; cái bát chứa được một phần 
mười của hô-me; cái lường của nó sẽ theo hô-me làm mực.
12. Một siếc-lơ bằng hai mươi ghê-ra; hai mươi siếc-lơ, cọng với hai mươi lăm 
siếc-lơ, cọng với mười lăm siếc-lơ, là một min.
13. Nầy là lễ vật dâng mà các ngươi phải lấy ra trước: mỗi một hô-me lúa ḿ lấy 
một phần sáu ê-pha, mỗi một hô-me mạch nha lấy một phần sáu ê-pha,
14. c̣n như dầu và những bát dầu th́ mỗi cô-rơ khá lấy trước một phần mười, một 
cô-rơ bằng một hô-me mười bát, v́ mười bát là một hô-me.
15. Trong những đồng cỏ đượm nhuần của Y-sơ-ra-ên, mỗi hai trăm con chiên th́ sẽ 
lấy một chiên con để làm của lễ chay, của lễ thiêu, của lễ thù ân, đặng làm con 
sinh chuộc tội cho dân sự, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
16. Hết thảy dân trong xứ sẽ phải lấy trước lễ vật dâng ấy ra dâng cho vua trong 
Y-sơ-ra-ên.
17. Nhưng vua khá giữ mà sắm sửa những của lễ thiêu, của lễ chay, và lễ quán khi 
ngày lễ, ngày trăng mới, ngày sa-bát, cùng mọi ngày lễ của nhà Y-sơ-ra-ên. Vua 
sẽ dâng của lễ chuộc tội, của lễ chay, của lễ thiêu, và của lễ thù ân, đặng v́ 
nhà Y-sơ-ra-ên làm sự chuộc tội.
18. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mồng một tháng giêng, ngươi khá lấy một 
con ḅ đực tơ không t́ vít, và khá làm sạch nơi thánh.
19. Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của con sinh tế chuộc tội mà bôi lên các trụ cửa 
nhà, trên bốn góc khuôn bàn thờ, và trên các trụ cổng của hành lang trong.
20. Ngày mồng bảy tháng ấy, ngươi cũng làm sự đó cho những người v́ lầm lỡ hoặc 
ngu dại mà phạm tội; ấy các ngươi sẽ làm lễ chuộc tội cho nhà như vậy.
21. Ngày mười bốn tháng giêng, các ngươi khá giữ lễ Vượt-qua trong bảy ngày; 
phải ăn bánh không men.
22. Ngày đó, vua sẽ v́ ḿnh và v́ cả dân sự của đất mà sắm một con ḅ đực làm 
của lễ chuộc tội.
23. Trong bảy ngày của kỳ lễ, mỗi ngày vua sẽ sắm bảy con ḅ đực và bảy con 
chiên đực không t́ vít làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va thẳng bảy ngày; và mỗi 
ngày một con dê đực làm của lễ chuộc tội.
24. Vua cũng thêm vào đó cứ mỗi con ḅ đực một ê-pha, mỗi con chiên đực một 
ê-pha, mỗi ê-pha một hin dầu đặng làm của lễ chay.
25. Ngày rằm tháng bảy về kỳ lễ, thẳng trong bảy ngày, vua cũng sẽ sắm những của 
lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay và dầu y như trước.
Ê-xê-chi-ên 46   
 chọn đoạn khác
1. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Cổng của hành lang trong, ngó về phía đông, sẽ 
đóng luôn trong sáu ngày làm việc; nhưng ngày sa-bát th́ sẽ mở, và ngày trăng 
mới cũng sẽ mở.
2. Vua sẽ đến nơi đó do cổng nhà ngoài, và đứng gần trụ cổng trong khi các thầy 
tế lễ sắm của lễ thiêu và của lễ thù ân. Vua sẽ lạy trên ngạch hiên cửa, rồi, 
bước ra, và cửa sẽ không đóng lại trước khi chiều tối.
3. Những ngày sa-bát và ngày trăng mới, dân sự của đất sẽ thờ lạy trước mặt Đức 
Giê-hô-va nơi lối vào hiên cửa ấy.
4. Của lễ thiêu mà vua sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va nơi ngày sa-bát là sáu con 
chiên con không t́ vít.
5. Của lễ chay sẽ là một ê-pha theo con chiên đực, c̣n về các chiên con th́ vua 
muốn dâng chi tùy sức, và mỗi ê-pha đèo một hin dầu.
6. Ngày trăng mới, vua sẽ sắm một con ḅ đực tơ không t́ vít, sáu con chiên con 
và một con chiên đực cũng phải cho không t́ vít.
7. Về của lễ chay, vua sẽ sắm một ê-pha theo con ḅ đực, một ê-pha theo con 
chiên đực, c̣n về các chiên con th́ vua dâng chi tùy sức, và mỗi ê-pha đèo một 
hin dầu.
8. Khi vua vào, th́ do đường thuộc về nhà ngoài của cổng mà qua, và cũng sẽ ra 
theo đường ấy.
9. Khi dân sự của đất vào đặng chầu trước mặt Đức Giê-hô-va nơi kỳ lễ, th́ hễ kẻ 
nào vào bởi đường cổng phía bắc mà thờ lạy, sẽ ra bởi đường cổng phía nam; c̣n 
kẻ nào vào bởi đường cổng phía nam, sẽ ra bởi đường cổng phía bắc: không được 
trở ra bởi đường cổng mà ḿnh đă vào, những phải ra thẳng trước mặt ḿnh.
10. vua sẽ vào cùng với dân sự một lúc; và khi ai nấy ra th́ chính vua cũng ra.
11. Trong các kỳ lễ và các ngày lễ trọng thể, của lễ chay sẽ là một ê-pha theo 
con ḅ đực, và về các chiên con th́ vua muốn dâng chi tùy sức, mỗi một ê-pha đèo 
một hin dầu.
12. Khi vua sắm cho Đức Giê-hô-va một của lễ lạc hiến (của lễ thiêu hoặc của lễ 
thù ân), th́ sẽ mở cổng hướng đông cho người, và người khá sắm của lễ thiêu ḿnh 
và những của lễ thù ân ḿnh như người sắm các của lễ ấy trong ngày sa-bát; đoạn 
người trở lui, và khi đă ra rồi khá đóng cổng lại.
13. Mỗi ngày ngươi khá sắm cho Đức Giê-hô-va một con chiên con giáp năm, không 
t́ vít, vào mỗi buổi mai.
14. Mỗi buổi mai ngươi khá sắm theo chiên con một phần sáu ê-pha với một phần ba 
hin dầu để ḥa bột, là của lễ chay. Của lễ chay dâng cho Đức Giê-hô-va hằng ngày 
theo lệ luật đời đời.
15. Hết thảy những buổi mai, người ta sẽ sắm chiên con, của lễ chay, và dầu, làm 
của lễ thiêu măi măi.
16. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Khi vua lấy vật chi mà ban cho một trong các 
con trai ḿnh, th́ vật ấy sẽ thuộc về các con trai người làm gia tài; ấy là 
thuộc về chúng nó bởi quyền ăn gia tài.
17. Nhưng nếu vua lấy vật chi của sản nghiệp ḿnh mà ban cho một trong các đầy 
tớ ḿnh, th́ vật ấy sẽ thuộc về kẻ đầy tớ cho đến năm phóng mọi; rồi th́ vật ấy 
trở về vua. Cơ nghiệp của vua th́ phải thuộc về các con trai người.
18. Vua chớ lấy chi hết về gia tài của dân, mà đuổi chúng nó khỏi cơ nghiệp 
chúng nó; vua sẽ lấy của riêng ḿnh mà ban cho các con trai ḿnh làm cơ nghiệp, 
hầu cho dân ta ai nấy không bị tan lạc khỏi cơ nghiệp ḿnh.
19. Rồi đó, người dẫn ta do lối vào kề bên cổng, mà dắt ta vào các pḥng thánh 
của các thầy tế lễ, hướng về phía bắc; và nầy, có một chỗ ở trong nơi sâu, về 
phía tây.
20. Người bảo ta rằng: Đó là nơi các thầy tế lễ nấu những của lễ chuộc tội và 
chuộc sự mắc lỗi, và hấp những của lễ chay, hầu cho không đem ra nơi hành lang 
ngoài để cho dân nên thánh.
21. Đoạn người đem ta ra nơi hành lang ngoài, và đem ta qua gần bốn góc hành 
lang; nầy, mỗi góc hành lang có một cái sân.
22. Nơi bốn góc hành lang có những sân bao lấy, dài bốn mươi cu-đê và rộng ba 
mươi cu-đê; hết thảy bốn sân đều dài rộng bằng nhau trong cả bốn góc.
23. Có một cái tường bao lấy bốn cái sân ấy, và chung quanh dưới chơn tường có 
những chỗ để nấu.
24. Người bảo ta rằng: Đây là những nhà bếp, là nơi những kẻ làm việc trong nhà 
nấu thịt tế của dân sự.
Ê-xê-chi-ên 47   
 chọn đoạn khác
1. Kế đó, người dẫn ta đem ta về cửa nhà; và nầy, có những nước văng ra từ dưới 
ngạch cửa, về phía đông; v́ mặt trước nhà ngó về phía đông, và những nước ấy 
xuống từ dưới bên hữu nhà, về phía nam bàn thờ.
2. Người đem ta ra bởi đường cổng phía bắc, và dẫn ta đi ṿng quanh bởi đường 
phía ngoài, cho đến cổng ngoài, tức là bởi đường cổng hướng đông; và nầy, có 
những nước chảy về bên hữu.
3. Người dẫn ta sấn lên phía đông, tay cầm một cái dây, lấy dây đo được một ngàn 
cu-đê; người khiến ta lội qua nước, nước vừa đến mắt cá ta.
4. Người lại đo một ngàn, và khiến ta lội qua nước, nước vừa đến đầu gối ta. 
Người lại đo một ngàn, và khiến ta lội qua nước, nước lên đến hông ta.
5. Người lại đo một ngàn nữa; bấy giờ là một con sông, ta không lội qua được; v́ 
nước đă lên, phải đạp bơi; ấy là một con sông mà người ta không có thể lội qua.
6. Bấy giờ người bảo ta rằng: Hỡi con người, có thấy không? Rồi người đem ta trở 
lại nơi bờ sông.
7. Khi đến đó rồi, nầy, bên nầy và bên kia bờ sông có cây rất nhiều.
8. Người bảo ta rằng: Những nước nầy chảy thẳng đến phương đông, xuống nơi đồng 
bằng, và chảy về biển; và khi đă chảy về biển, nước biển sự trở nên ngọt.
9. Khắp nơi nào sông ấy chảy đến, th́ mọi vật hay sống, tức là vật động trong 
nước, đều sẽ được sống; và ở đó sẽ có loài cá rất nhiều. Nước ấy đă đến đó th́ 
nước biển trở nên ngọt, và khắp nơi nào sông ấy chảy đến th́ mọi vật sống ở đó.
10. Những kẻ đánh cá sẽ đứng trên bờ sông ấy; từ Ên-Ghê-đi cho đến Ên-Ê-la-im sẽ 
làm một nơi để giăng lưới; những có trong đó cỏ đủ thứ và rất nhiều, cũng như ở 
trong biển lớn.
11. Nhưng những chằm những bưng của biển ấy sẽ không trở nên ngọt, mà bỏ làm đất 
muối.
12. Gần bên sông ấy, trên bề nầy và bờ kia, sẽ sanh đủ thứ cây có trái ăn được, 
lá nó không hề héo rụng, và trái nó không hề dứt. Mỗi tháng nó sẽ sanh ra trái 
mới, v́ những nước tưới nó chảy ra từ nơi thánh. Trái nó dùng để ăn, lá nó dùng 
để làm thuốc.
13. Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy là giới hạn của cơi đất mà các ngươi sẽ 
chia cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp. Giô-sép sẽ có hai phần.
14. Các ngươi sẽ được nó mà chia nhau làm sản nghiệp; v́ ta đă thề sẽ ban xứ nầy 
cho tổ phụ các ngươi, th́ các ngươi sẽ được đất ấy làm kỷ phần.
15. Nầy là giới hạn của đất; về phía bắc, từ biển lớn, theo con đường Hết-lôn 
cho đến đường sang Xê-đát,
16. Ha-mát, Bê-rốt và Síp-ra-im, giữa bờ cơi Đa-mách và bờ cơi Ha-mát, 
Hát-se-Hát-thi-côn trên bờ cơi Ha-vơ-ran.
17. Ấy vậy bờ cơi chạy dài từ biển đến Há-sa-Ê-nôn, trên bờ cơi Đa-mách về phái 
bắc lấy Ha-mát làm giới hạn; ấy sẽ là phía bắc.
18. Phía đông chạy dài giữa Ha-vơ-ran, Đa-mách, Ga-la-át và đất Y-sơ-ra-ên, dọc 
theo sông Giô-đanh. Các ngươi khá đo phần đất từ bờ cơi phía bắc cho đến biển 
phía đông; ấy sẽ là phía đông.
19. Phía nam chạy từ Tha-ma cho đến sông Mê-ri-ba, tại Ca-đe, đến khe Ê-díp-tô, 
cho đến biển lớn; ấy là phía nam.
20. Phía tây sẽ là biển lớn, từ bờ cơi phía nam cho đến lối vào Ha-mát; ấy là 
phía tây.
21. Các ngươi khá chia đất nầy cho nhau, theo chi phái Y-sơ-ra-ên;
22. các ngươi khá bắt thăm mà chia cho các ngươi và cho những người ngoại trú 
ngụ giữa các ngươi và sanh con cái giữa các ngươi. Các ngươi sẽ coi chúng nó như 
là kẻ bổn tộc giữa con cái Y-sơ-ra-ên.
23. Người ngoại sẽ trú ngụ trong chi phái nào, th́ các ngươi sẽ lấy sản nghiệp ở 
đó mà cấp cho nó, Chúa Giê-hô-va phán vậy.
Ê-xê-chi-ên 48   
 chọn đoạn khác
1. Nầy là tên các chi phái: phần đất khởi từ phía cực bắc và chạy dài từ phía 
Hết-lôn cho đến đường vào Ha-mát và Hát-sa-Ê-nôn, nơi bờ cơi Đa-mách hướng về 
phía bắc đến Ha-mát, từ phía đông đến phía tây, là phần đất thuộc về của Đan.
2. Trên bờ cơi Đan, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của A-se.
3. Trên bờ cơi A-se, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Nép-ta-li.
4. Trên bờ cơi của Nép-ta-li, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của 
Ma-na-se.
5. Trên bờ cơi của Ma-na-se, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Ép-ra-im.
6. Trên bờ cơi của Ép-ra-im, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Ru-bên.
7. Trên bờ cơi của Ru-bên, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần của Giu-đa.
8. Trên bờ cơi của Giu-đa, từ phía đông đến phía tây, sẽ là phần mà các ngươi sẽ 
dâng; phần ấy sẽ là hai mươi lăm ngàn cần bề ngang, và bề dài từ đông sang tây 
bằng mỗi một phần của các phần. Nơi thánh ta sẽ ở giữa phần ấy.
9. Phần đất mà các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va sẽ có hai mươi lăm ngàn cần 
bề dài và mười ngàn cần bề ngang.
10. Phần đất thánh ấy sẽ để cho các thầy tế lễ; sẽ có hai mươi lăm ngàn cần bề 
ngang về phía tây, mười ngàn cần bề ngang về phía đông, về phía nam hai mươi lăm 
ngàn cần bề dài; nơi thánh của Đức Giê-hô-va sẽ ở chính giữa.
11. Phần đất ấy sẽ để cho các thầy tế lễ đă được biệt ra thánh, tức là cho các 
con trai của Xa-đốc, là những kẻ làm chức vụ ở nơi thánh ta không lầm lạc trong 
khi con cái Y-sơ-ra-ên cùng người Lê-vi đi lầm lạc.
12. Chúng nó sẽ có một phần sẵn dành trong phần đă trích ra trên địa hạt, là 
phần rất thánh, kề bờ cơi người Lê-vi;
13. v́ người Lê-vi sẽ choán phần rọc theo bờ cơi các thầy tế lễ, hai mươi lăm 
ngàn cần bề dài và mười ngàn bề ngang; nghĩa là cả bề dài hai mươi lăm ngàn cần, 
bề ngang mười ngàn cần.
14. Phần ấy chúng nó sẽ không được bán, không được đổi, không được nhượng trai 
đầu mùa của đất cho người khác, v́ nó đă biệt ra thánh cho Đức Giê-hô-va.
15. C̣n lại năm ngàn cần bề ngang trên hai mươi lăm ngàn cần bề dài, th́ sẽ là 
một noi tục, để làm thành phố sẽ ở chính giữa.
16. Nầy là tư vuông của nó: phía bắc bốn ngàn năm trăm, phía nam bốn ngàn năm 
trăm cần, phía đông bốn ngàn năm trăm, phía tây bốn ngàn năm trăm.
17. Đất ngoại ô của thành phố về phía bắc sẽ có hai trăm năm chục cần, phía nam 
hai trăm năm chục, phía đông hai trăm năm chục, và phía tây hai trăm năm chục.
18. C̣n như miếng đất thừa lại, rọc theo phần đất thánh, bề dài là mười ngàn cần 
phía đông và mười ngàn cần phía tây, tức là bề dài của phần đất thánh ấy, th́ 
hoa lợi nó sẽ dùng làm đồ ăn cho những kẻ làm việc trong thành.
19. Những kẻ làm việc trong thành, thuộc về hết thảy các chi phái Y-sơ-ra-ên, sẽ 
cày cấy phần đất ấy.
20. Tổng cọng bề mặt của phần trích ra là hai mươi lăm ngàn cần bề dài, hai mươi 
lăm ngàng cần bề ngang; các ngươi khá trích ra một góc tư của phần đất thánh ấy 
đặng làm địa phận thành phố.
21. Phần c̣n lại sẽ thuộc về vua, ở về hai bên đất thánh đă trích ra và địa phận 
thành phố, bề dài hai mươi lăm ngàn cần của phần đất trích ra, cho đến bờ cơi 
phía đông; và về phía tây, bề dài hai mươi lăm ngàn cần cho đến bờ cơi phía tây, 
rọc theo các phần của các chi phái. Ấy sẽ là phần của vua; và phần đất thánh đă 
trích ra cùng nơi thánh của nhà sẽ ở chính giữa.
22. Như vậy th́ phần của vua sẽ là cả một khoảng gồm giữa bờ cơi Giu-đa và bờ 
cơi Bên-gia-min, trừ ra sản nghiệp của người Lê-vi và địa phần thành phố, c̣n 
thảy cả sẽ thuộc về vua.
23. Về phần các chi phái c̣n lại: từ đông đến tây một phần cho Bên-gia-min;
24. trên bờ cơi Bên-gia-min, từ đông đến tây, một phần cho Si-mê-ôn;
25. trên bờ cơi Si-mê-ôn, từ đông đến tây, một phần cho Y-sa-ca;
26. trên bờ cơi Y-sa-ca, từ đông đến tây, một phần cho Sa-bu-lôn;
27. trên bờ cơi Sa-bu-lôn, từ đông đến tây, một phần cho Gát;
28. và trên bờ cơi Gát nơi phía nam hướng về phía nam, bờ cơi chạy từ Tha-ma đến 
sông Mê-ri-ba, ở Ca-đe, đến khe Ê-díp-tô, cho đến biển lớn.
29. Ấy là đất mà các ngươi sẽ dùng cách bắt thăm chỉ định cho các chi phái 
Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp; và ấy sẽ là phần của chúng nó, Chúa Giê-hô-va phán 
vậy.
30. Nầy là những lối ra của thành phố: Về phía bắc, bốn ngàn năm trăn cần;
31. những cửa thành sẽ đội tên của các chi phái Y-sơ-ra-ên. Phía bắc ba cửa: cửa 
Ru-bên là một; cửa Giu-đa là một; cửa Lê-vi là một.
32. Phía đông bốn ngàn năm trăm cần, và ba cửa: cửa Giô-sép là một; cửa 
Bên-gia-min là một; cửa Đan là một.
33. Phía nam, đo bốn ngàn năm trăm cần, và ba cửa: cửa Si-mê-ôn là một; cửa 
Y-sa-ca là một; cửa Sa-bu-lôn là một.
34. Phía tây, bốn ngàn năm trăm cần, và ba cửa: cửa Gát là một; cửa A-sa là một; 
cửa Nép-ta-li là một.
35. Châu vi thành sẽ có mười tám ngàn cần; và rày về sau tên thành sẽ là: "Đức 
Giê-hô-va ở đó!"